Thất Sát Dần Thân Tí Ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi Việt Tả Hữu Văn Xương hội
Bạn đang đọc: Sao Thất Sát, Ý nghĩa khi Sao Thất Sát nhập mênh thân
Quyền Lộc danh cao thực văn chung
Sát cư hãm địa bất kham ngôn
Hung hoạ do như bão hổ miên
Nhược thị sát cường vô chế phục
Thiếu niên ác tử đáo hoàng tuyền
Nghĩa là : Sao Thất Sát đóng những cung Dần Thân Tí Ngọ mà Mệnh Thân tại đó bốn phương sẽ chấp tay cúi chào người anh hùng. Thêm Khôi Việt, Xương Khúc quy tụ nổi tiếng khắp nơi quyền cao tiền nhiều. Sao Thất Sát rơi vào hãm địa nguy khốn như ôm hổ mà ngủ. Nếu không có sao nào chế phục tất sẽ chết yểu hay chết thảm .
Contents
Ý nghĩa Sao Thất Sát
Sao Thất sát miếu ở Sửu, Mùi, Dần, Thân, Thìn, Tuất, hãm ở Mão, Dậu .
Thất sát là sao thứ sáu của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, hóa khí làm ” quyền ”, cũng là tướng tinh bên cạnh nhà vua, chủ về “ túc sát ” ( nghiêm và có sát khí ), cuộc sống chủ về cô độc, đa số không có tri kỷ. Có thể tận dụng tính cách độc lập mà tăng trưởng, sáng lập sự nghiệp mới một cách giật mình .
Sao Tử vi tương hội với sao Thất sát, hoàn toàn có thể giúp cho đế tinh cầm cương ra oai, chuyển hóa thành quyền lực tối cao, nhờ có vậy mà khí ” túc sát ” của Thất sát trở thành hòa hoãn .
Do Thất sát là sao đại tướng, vì vậy rất ưa phò tá Tử vi, Thiên phủ, chủ về được quý nhân đề bạt mà hoạn lộ thênh thang. Dù gặp Sát tinh, cũng hoàn toàn có thể theo ngành kinh doanh thương mại kinh doanh mà trở nên giầu có. Nếu theo con đường kinh doanh thương mại, chỉ thích hợp với ngành công thương nghiệp, ở môi trường tự nhiên này sẽ là một nhân viên cấp dưới giỏi, năng động và tháo vát, nhưng không nên đầu tư mạnh, vì dễ xẩy ra phá tán mà thất bại ; khi đã thất bại muốn trở lại cân đối và lấy đà vực dậy, sẽ gặp nhiều trở ngại và rất khó khăn vất vả .
Phàm người có Thất trinh sát cung Mệnh, trong đời ắt sẽ có một lần gẫy đổ rất lớn, cung Mệnh mà gặp Địa không, Địa kiếp, Đại hao thì càng nặng. Nếu theo ngành công thương nghiệp, tuy có trở ngại nhưng lòng tin không bị mất, vẫn được sự tin tưởng, hoàn toàn có thể khôi phục nguyên khí, nhưng vẫn không nên đầu tư mạnh mạo hiểm .
“ Thất sát Liêm trinh ” đồng độ ở Mùi, hoặc Thất sát độc tọa thủ Mệnh ở Ngọ, còn Liêm trinh thủ cung Phúc đức, đều gọi là cách ” Hùng tú kiền nguyên ”, chủ về phách lực hùng hậu. Đây do âm Kim của Thất sát được âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện mà thành hữu dụng. Thất trinh sát Mệnh ở Tý thì tốt kế đó .
Thất sát ở Sửu, tuy có Liêm trinh đồng độ, nhưng là mệnh cách thông thường. Nếu tứ sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh hội chiếu, chủ về hình khắc, khốn khó, tổn thương, họa hại, nặng thì ở đầu cuối sinh tàn tật .
Thất sát rất ngại lạc hãm, cũng như không ưa gặp Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, Âm sát, chủ về tính cô độc càng thêm tăng nặng, phúc khí bất toàn. Phần nhiều, mệnh tạo thường tìm đến tôn giáo để giải tỏa ý thức, tư tưởng nhiều ảo vọng nên thường cảm thấy tâm hồn hư ảo trống rỗng .
Thất sát ở Sửu hoặc ở Mùi, cung Thiên di ắt là Thiên phủ, chủ về vẻ bên ngoài cứng rắn mà bên trong giầu tình cảm, hầu hết hay buồn bã không duyên cớ, dễ mủi lòng, còn bất lợi về hôn nhân gia đình, ở đầu cuối dễ có tư tưởng xuất thế .
Thất sát gặp ” Thái dương Cự môn ” ở cung Đế vượng, gọi là ” cát xứ tàng hung ” ( trong cát có hung ), chủ về trong thuận cảnh bỗng sinh biến cố, nên giấu bớt kĩ năng .
Nam mệnh Thất sát, cung Phúc đức nên gặp những Cát tinh. Nữ mệnh Thất sát, cung Phu nên gặp những Cát tinh .
Thất sát là tướng tinh, những sao Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, cho tới Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, so với nó mà nói, đều rất quan trọng, làm tăng thanh thế cho Thất sát. Vì vậy không bằng trường hợp những sao Cát phân bổ đều trong 12 cung, lúc này cách phối trí mệnh bàn được quân bình, đời người giảm thiểu những trắc trở nguy hiểm .
Sao Thất Sát Cung Mệnh – Thất Sát Thủ Mệnh – Thân
Thất Sát đồng cung với Tử Vi hay đối nhau với Tử Vi, đều hoá làm thế nào quyền. Nếu gặp Tử Vi Hoá Quyền, thì quyền quá nặng, chưa chắc có lợi. Đến những đại hạn hay lưu niên này ắt không cát tường như ý, cần đề phòng xảy ra thất bại. Rất ghét gặp cung hạn Vũ Khúc Hoá Kị .
Thiên Lương chủ về “ phong tục, lao lý ”, Thất Sát cũng chủ về “ phong tục, lao lý ”, nên cũng chủ về “ hình pháp, kỉ luật ”. Có điều, Thiên Lương thuộc văn, Thất Sát thuộc võ ; Thiên Lương hoàn toàn có thể lui về hậu trường, Thất Sát thì bước lên phía trước. Cho nên Thiên Lương hoàn toàn có thể nhuyễn hoá thành “ giám sát ”, Thất Sát thì nhuyễn hoá thành “ quản trị ” .
Cổ nhân nói : “ Hai cung mà gặp nó, định phải trải qua khó khăn ”. ( Nhị cung phùng chi, định lịch gian tân. ), tức là hai cung mệnh và thân mà gặp Thất Sát, đời người ắt sẽ có một thời kỳ gian nan. Đại khái là, Thất Sát rất kỵ đến hai cung hạn Thiên Cơ, Cự Môn toạ thủ ; cần phải có hành vi thiết thực để qua quy trình tiến độ này, mới hoàn toàn có thể hởi lòng hởi dạ .
Thất Sát ắt sẽ đối nhau với Thiên Phủ, Thất Sát chủ về công, Thiên Phủ chủ về thủ, hai sao kềm chế lẫn nhau, cần phải xem ảnh hưởng tác động của hai bên như thế nào. Ví dụ như Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân có Lộc Tồn đồng độ, đối cung là “ Tử Vi, Thiên Phủ ”, mà Thiên Phủ được Lộc Tồn vây chiếu, cho nên vì thế lợi về thủ, mà bất lợi về công. Lúc này Thất Sát tuy chịu tác động ảnh hưởng của Tử Vi ở đối cung, quyền lực tối cao của nó cũng nên có khuynh hướng bảo thủ, rất nên tăng trưởng trong cục diện hiện có, mà không nên lập ra cục diện mới, cũng không nên có nhiều đổi khác .
Thất Sát kỵ Hoả Tinh, Linh Tinh, kỵ nhất là tổng hợp “ Kình Dương, Hoả Tinh ”, hay “ Kình Dương, Linh Tinh ”. Trong hai nhóm, “ Kình Dương, Linh Tinh ” là rất xấu ; nếu có Thiên Hình đồng độ, gặp những sao Âm Sát, Đại Hao, Thiên Hư, sẽ chủ về phạm pháp hình sự .
Thất Sát ở cung miếu vượng, gặp “ Kình Dương, Hoả Tinh ” thì còn được, chỉ chủ về lực kích phát, đời người không ngừng trắc trở nhưng hoàn toàn có thể nhờ đó mà tân tiến. Nếu gặp “ Kình Dương, Linh Tinh ”, thì có ý vị lụn bại từ từ, ở hãm địa thì càng nặng, còn chủ về không có duyên với lục thân, cuộc sống ít được trợ lực .
Thất Sát không nên chỉ hội Văn Xương, Văn Khúc, mà không hội những sao phú, tá cát khác. Nếu không, thì càng mưu trí càng độc đoán, không chịu nghe quan điểm của người khác, thường là do mệnh tạo gây ra trắc trở .
Thất Sát rất ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt ; thậm chí còn đến những cung hạn có Lưu Khôi, Lưu Việt vây chiếu hay hội hợp, thường thường đây cũng là thời cơ chuyển biến theo hướng tốt .
Thất Sát cũng ưa gặp sao lộc, ưa nhất là gặp Phá Quân Hoá Lộc, chủ về đời người trải qua một lần chuyển biến quan trọng mà được phong phú ; kế đến là Tham Lang Hoá Lộc, cũng hoàn toàn có thể được vẻ vang, nhưng đề phòng phong phú không lâu bền hơn ; Vũ Khúc Hoá Lộc cũng tốt, nhưng cách cục kém hơn .
Thất Sát đối nhau với Thiên Phủ, là đã có hàm nghĩa gây trở ngại lẫn nhau, là xích míc về đặc thù. Cho nên lúc Thất sát có những sao sát, hình, không, hao đồng độ, thường dễ vì gặp trắc trở mà cảm thấy đời người là hư ảo, đa số vì thế mà có khuynh hướng tôn giáo, bước vào cửa Phật, Đạo. Có điều, nếu Thiên Phủ gặp sao lộc, thì trước sau vẫn tham luyến duyên trần .
Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có “ Vũ Khúc, Thiên Phủ ” vây chiếu, gặp sao lộc thì “ tài tinh ” Vũ Khúc có nền tảng, hoàn toàn có thể điều hoà khí chất của Thất Sát. Cho nên hoàn toàn có thể nhuyễn hoá thành người trong giới làm ăn kinh doanh thương mại. Nếu là người nắm quyền về kinh tế tài chính kinh tế tài chính mà không có sao lộc, chỉ cần không có những sao sát, kị, hình, cũng chủ về được bậc trưởng thượng dùng tài lực giúp đở, đây là được dư khí che chở .
Bởi vì tương quan đến “ sự che chở ”, vì vậy Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ đặc biệt quan trọng ưa gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụ, Hữu Bật. Nếu đến đại vận hoặc lưu niên có Lưu Khôi, Lưu Việt xung khởi Thiên Khôi, Thiên Việt của nguyên cục, thì vận hạn hay niên hạn này, đại khái hoàn toàn có thể xem là cát lợi, chủ về được người tri ngộ ; nhưng nếu có những sao sát, kị, hình hội hợp thì thuộc ngoại lệ .
Nếu Thất sát ở cung Ngọ, thành cách “ Hùng tú kiền nguyên ”, thì kiêng cự có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ. Cách cục này là hoả luyện âm kim, gặp Hoả Tinh, Linh Tinh thì hoả hầu quá lớn, không những đời người khó khăn, mà e rằng còn bị tàn tật. Trường hợp thành cách, cũng ưa đến những đại vận hoặc lưu niên có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt .
Thất Sát ở cung Tí không thành cách “ Hùng tú kiền nguyên ”, vì Tí là phương Bắc thuộc thuỷ, thuỷ hoàn toàn có thể khắc hoả. Dù có Hoả Tinh, Linh Tinh đồng độ, cũng chỉ chủ về dạt dẹo khó khăn vất vả, nhưng không đến nỗi phá cách .
Trường hợp thành cách “ Hùng tú kiền nguyên ”, rất ưa Liêm Trinh Hoá Lộc, là thượng cách. Chủ về sức sống mạnh, mà còn kiên nghị trác tuyệt, trải qua phấn đấu mà thành đại nghiệp. Vận phát đạt ắt sẽ ở cung hạn Phá Quân toạ thủ. Năm phát đạt ắt sẽ ở cung hạn Liêm Trinh hoặc Tham Lang toạ thủ .
Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ, không thành cách hoặc phá cách, lại không nên đến cung hạn Liêm Trinh, chủ về hôn nhân gia đình gặp nhiều sóng gió, trắc trở ; cũng không nên đến cung hạn “ Thiên Cơ, Cự Môn ” toạ thủ, thường thường là quy trình tiến độ thất bại .
Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với “ Tử Vi, Thiên Phủ ”, không ưa Tử Vi Hoá Quyền, mà rất ưa Tử Vi Hoá Khoa, Thiên Phủ Hoá Khoa. Tử Vi Hoá Khoa chủ về công, Thiên Phủ Hoá Khoa chủ về thủ .
Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, là người độc đoán ; gặp Văn Xương, Văn Khúc thì vì mưu trí mà phạm sai lầm đáng tiếc ; gặp Lộc Tồn đồng độ, khí mà hoà hoãn thì thành cách cục tốt, nhưng tính độc đoán càng nặng. Lúc luận đoán phải chú ý quan tâm điểm này, cần phải xem xét kỹ cung phúc đức và cung phu thê, để xác lập phẩm tính của mệnh cục. Điều này ảnh hưởng tác động rất lớn đến hậu vận .
Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Hoả Tinh, Linh Tinh thì nóng nảy, bộp chộp .
Đối với Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, những cung hạn “ Liêm Trinh, Thiên Tướng ”, Cự Môn, Phá Quân, Thái Dương là những đại hạn hoặc lưu niên có tính then chốt .
Thất sát ở cung Thân, “ Liêm Trinh, Thiên Tướng ” ở cung Ngọ dù không thành cách “ Hùng tú kiền nguyên ” ( vì Thất sát thuộc kim, cung Thân cũng thuộc kim ; Liêm Trinh thuộc hoả, cung Ngọ cũng thuộc hoả, hai khí kim hoả về gốc, thành mỗi bên một khí, không có tính năng hổ tương ), nhưng vẫn ưa hai cung hạn Liêm Trinh Hoá Lộc và Phá Quân Hoá Lộc, đây là quy trình tiến độ phát đạt .
Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có “ Liêm Trinh, Thiên Phủ ” vây chiếu, thì nặng lý trí hơn “ Liêm Trinh, Thất Sát ” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, nhưng đa số đều có tư tưởng đặc biệt quan trọng. Cho nên rất kị có Địa Không, Địa Kiếp hội hợp, nếu không, người ta sẽ khó mà hiểu được họ, vì cảm thấy đời người thiếu tri kỷ, nên thành người cô độc, thậm chí còn nhiều ngoạn mục, thiếu thực tiễn .
Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, gặp Văn Xương, Văn Khúc còn được, nhưng cần phải gặp Thiên Khôi, Thiên Việt hoặc Tả Phụ, Hữu Bật, mới hoàn toàn có thể phong phú. Nhưng nếu Tham Lang Hoá Lộc đến hội hợp ( chú ý quan tâm, Tham Lang cũng tác động ảnh hưởng cung phúc đức ), e rằng dục vọng khó thoả mãn, thế là, tuy giàu sang nhưng cũng nhiều khó khăn vất vả .
Đối với Thất sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, những cung hạn “ Vũ Khúc, Thiên Tướng ”, “ Thiên Đồng, Cự Môn ”, Tham Lang, hoặc cung hạn có tinh hệ vây chiếu thuật ở trên, là những đại vận hoặc lưu niên có tính then chốt .
Thất Sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nếu cung phúc đức là Tử Vi Hoá Quyền, ắt sẽ bất lợi trong hôn nhân gia đình, nhất là nữ mệnh, thường chủ về không có hoạt động và sinh hoạt hôn nhân gia đình, hay thiếu lạc thú vợ chồng ( vì bận rộn, hoặc vì người bạn đời tri kỷ bệnh tật, cần phải xem tổng hợp sao thực tiễn mà định ) .
Đại khái là, Thất Sát ở hai cung Tí hoặc Ngọ thiết thực hơn Thất Sát ở hai cung Dần hoặc Thân, hay Thất Sát ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Phân biệt những đặc thù nhiều dục vọng hay giữ nguyên tắc của những nhóm tinh hệ tương quan đến Thất Sát thủ mệnh, cũng giúp ích cho việc luận đoán. Cho nên, ảnh hưởng tác động của tổng hợp tinh hệ Tham Lang so với Thất Sát như thế nào, thường thường có quan hệ rất lớn, gặp “ Hoả Tham ”, “ Linh Tham ”, càng chủ về dễ phát dễ phá .
Thất Sát – Làm Ra Làm – Chơi Ra Chơi
Tại Đẩu số, Thất Sát thuộc về sao “ cương mãnh ” thẳng tắp một mạch, cho nên vì thế phối hợp “ Sát Phá Tham ” đặc biệt quan trọng có nhiều thâm ý. Khả năng đổi khác cục diện của Tham Lang khá tròn trĩnh, hoàn toàn có thể từ chuyện mà chuyển hóa một cách vô thanh vô sắc ( không hình không tiếng ), lực biến hóa cục diện của Phá Quân dứt khoát nhất thiết không để sót lại gì, nhưng Thất Sát đổi khác thường thường thuộc trường hợp lập mưu mà dẫn đến động. Nên “ Sát Phá Tham ” hội hợp, rất là vừa đủ sắc thái “ cương nhu tương tế ” ( phối hợp cứng rắn với mềm dẻo ) .
Cử một thí dụ, Phá Quân giống như xây một cái nhà mới, không chăm sóc điều gì cứ đem nhà cũ dời đến nơi đất phẳng phiu, sau đó mở màn thiết kế xây dựng từ đầu, hoàn toàn có thể ví như thao tác nghĩa, việc quan trọng không được cho phép chùn bước ; Tham Lang không như vậy, nó không nhất định phải xây một cái nhà mới trọn vẹn, năng lực chỉ là trang hoàng, che đậy cái khuyết điểm của mình, không theo đường lối sách vở, rồi căn nhà tự nhiên tỏa nắng rực rỡ hẳn lên như mới ; còn Thất Sát thấy nứt thì đập bỏ, thấy khuyết điểm thì trang hoàng che đậy lại, không biến hóa một cách không có ý nghĩa cũng không tốn công hành sự vô ích, hời hợt hình thức bề ngoài .
Cho nên người có Thất Sát thủ mệnh, có đặc thù là thực tiễn, bám sát thực tiễn, không siểm nịnh cũng không ngần ngại cẩu thả ; tuy nhiên chính yếu vẫn phải phối hợp cả cấu trúc tinh hệ lại mà định, ví như Thất Sát hội hợp những tinh diệu quá mãnh liệt như kiến Hỏa Tinh Linh Tinh, người có loại mệnh tạo này thuận tiện chiêu oán ; nếu hội hợp Địa Không Địa Kiếp, tắc tâm linh dễ giác ngộ hư không, không chỉ có vậy việc xã giao trong đời sống cũng một mình lập dị, ít hợp với ai .
Ở thời xưa, mỗi người vốn có một nghề đặc trưng, mới có cảnh ngộ ở ẩn hay dạt dẹo vào đời, nếu không ắt là cao nhân ẩn sĩ, do đó cổ quyết nói : “ Thiên Hình hãm địa, xảo nghệ mưu sinh ” lại nói : “ Kỳ tính nhược thanh lương chi trạng, kỳ sổ tắc nghi vu tăng đạo ” ( Số tốt thì như Trạng Nguyên, số xấu thì đi theo đường tu hành ) hay như : “ Thất Sát cư hãm địa, trầm ngâm phúc bất sanh ” .
Thật ra người có Thất Sát thủ mệnh, cũng không giàu sang “ cả đời tước lộc vinh xương ” theo như lời cổ thư, cũng không thê lương như lời câu phú ghi bên trên. Vương Đình Chi đặc biệt quan trọng thích thú tính cách Thất Sát, hiểu được xã hội văn minh, khắc họa được một chút ít người “ làm ra làm chơi ra chơi ”. Cổ thư nói : “ Thất Sát nhập mệnh thân cung kiến cát, diệc tất lịch thụ gian tân ” ( Sát thủ mệnh thân dù gặp được cát tinh cũng trải qua gian nan ), câu phú này nhìn nhận quá tương thích và đúng đắn, không giống Tham Lang dễ rơi vào thủ xảo, lại không giống Phá Quân là đổi khác hết thảy, hành vi không chút chần chừ, hoặc sống hoặc chết. Vì vậy mới cho là Thất Sát “ lịch thụ gian tân ” rồi sau đó thành tựu là thế .
Người có Thất Sát thủ mệnh bộ phổi đa số không đủ năng lực chống cự vạn vật thiên nhiên, mà trình độ y dược thời xưa lỗi thời, vì thế dễ cho rằng Thất Sát gia hung tinh dễ yểu chiết, dễ chết về bệnh phổi hoặc bệnh suyễn, xã hội tân tiến văn minh, điểm này thấy không ứng nghiệm .
Thất Sát Biệt Cách
Các sao có tương quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổng hợp “ Sát Phá Tham ” .
Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu trúc cơ bản được phân làm 6 tổng hợp như sau :
– Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối lập là “ Vũ khúc Thiên phủ ”
– Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh
– Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối lập là “ Tử vi Thiên phủ ”
– Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc
– Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối lập là “ Liêm trinh Thiên phủ ”
– Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi
Từ những tổng hợp này hoàn toàn có thể thấy, những sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc .
Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên vì thế khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, đa số dễ “ hợp cục nhập cách ”, mà trở thành cát tường như ý. Tổ hợp “ Tử vi Thất sát ” hóa làm “ quyền lực tối cao ”. Thất sát ở cung đối lập với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “ sức khai sáng ” của mệnh cách ; nhưng đặc thù của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo ; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất trinh sát mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất trinh sát mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn nhu cầu dục vọng quyền lực tối cao .
Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh hoàn toàn có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem những sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong phú nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “ Liêm trinh Thiên phủ ”, là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc sống không đẹp như “ hoa trong gương ” hay như “ trăng dưới nước ”, thường khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn .
“ Thất sát Vũ khúc ” đồng độ, là một tổng hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài chỉ huy. Có Thiên phủ ở cung đối lập hội chiếu, nên năng lực độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu lộ độc tài, cho nên vì thế có khuyết điểm về năng lượng chỉ huy. Trong những tổng hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổng hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một đời sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp .
Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực
Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “ cương mãnh ”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình dung, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu thống kê giám sát phối hợp hành vi, tổng hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “ cương nhu tương tế ”. Người có Thất trinh sát mệnh, có đặc thù là thiết thực, không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với những sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, hoạt động và sinh hoạt xã giao ít hợp quần .
Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc trưng, mới có cảnh ngộ “ độn thế và nhập thế ” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, vì vậy cổ quyết nói “ Thất sát hãm địa, nhờ kinh nghiệm tay nghề khéo mà mưu sinh ”, “ Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ ”. Thực ra, người có Thất trinh sát mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày này, người có Thất sát là người có hành vi thiết thực, như cổ thư nói “ Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua khó khăn ”, đây là một nhìn nhận thỏa đáng ; không như Tham lang dễ khôn khéo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tổng thể, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “ trải qua khó khăn ” sau mới có thành tựu .
Người có Thất trinh sát mệnh, đa số sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lỗi thời, vì thế cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên do chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn khí. Ngày nay Y học đã đạt được những văn minh vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm .
Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức
Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày này vẫn có người nệ cổ cho rằng “ Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn ”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “ Tử vi Thiên tướng ”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có đặc thù “ vô tình không có ý nghĩa ”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “ hiếu động trôi nổi ”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội văn minh, chủ về không chịu an phận thủ thường với thực trạng đang sống, mà thường tìm thời cơ đổi khác để thỏa với nhu yếu. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng tác động đến đời sống hôn nhân gia đình .
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “ Liêm trinh Thiên tướng ” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu trúc theo cách này, những sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “ xướng kĩ, tỳ thiếp ”, chính do thời cổ đại, “ xướng kĩ, tỳ thiếp ” thường ứng với loại phái đẹp hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội thời nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là tác nhân quyết định hành động đổ vỡ niềm hạnh phúc mái ấm gia đình .
Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “ Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “ Vũ khúc là sao cô quả ” nên bất lợi về hôn nhân gia đình. Trên thực tiễn, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “ cơ trí ”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo ngại chăm nom mái ấm gia đình, luôn ở trong nhà, “ cơ trí ” không có đất dụng võ, mà thường tăng trưởng biến thái thành tính “ ngầm hại nhau bằng kế mọn ”, đương nhiên không hề Kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội văn minh, chính sách đại gia đình đã không sống sót, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm sóc mái ấm gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng xu tiền, không riêng gì nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có tăng trưởng nhất định. Làm sao nói là “ mệnh thấp hèn ” ?
Thất Sát Gặp Triệt
Hình dáng & Tính tình người Thất Sát
Công Danh – Tài Lộc người Thất Sát
Bệnh Tật người Thất Sát
6 Kết cấu của người Thất Sát Thủ Mệnh
Các tinh diệu có tương quan đến Thất Sát nhất là Phá Quân và Tham Lang, ba sao này vĩnh viễn ở ba phương hội chiếu, gọi là tổng hợp “ Sát Phá Tham ” .
Nếu xét Thất Sát cư mười hai cung vị, thì cơ bản cấu trúc hoàn toàn có thể chia làm sáu tổng hợp :
– Tại tý ngọ cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Vũ Khúc Thiên Phủ .
– Tại sửu mùi cung, Thất Sát và Liêm Trinh đồng cung .
– Tại dần thân cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Tử Vi Thiên Phủ .
– Tại mão dậu cung, Thất Sát và Vũ Khúc đồng cung .
– Tại thìn tuất cung, Thất Sát độc tọa, đối cung là Liêm Trinh Thiên Phủ .
– Tại tị hợi cung, Thất Sát và Tử Vi đồng cung .
Thế nên từ sự phối hợp trên hoàn toàn có thể thấy được tinh diệu có quan hệ với Thất Sát ngoài Phá Quân Tham Lang ra, còn là 4 sao Tử – Phủ – Liêm – Vũ .
Thất Sát hoan hỷ nhất gặp Tử Vi, cho nên vì thế thủ mệnh tại bốn cung dần thân tị hợi, thuận tiện trở thành cách cục tốt đẹp, tổ hợp Tử Vi Thất Sát lúc này hóa thành quyền lực tối cao ; Thất Sát xung đối Tử Vi, cũng hoàn toàn có thể ngày càng tăng năng lượng khai sáng cho người. Nhưng đặc thù của Thiên Phủ lại đồng thời hoàn toàn có thể khiến người rơi vào không ảo, nên từ phương diện tích cực mà nói, Thất Sát hai cung cư tị hợi tốt đẹp hơn so với hai cung dần thân ; nhưng người có mệnh ở hai cung dần thân đời sống thủ đắc được triết học rất mê hoặc, không giống như cư hai cung tị hợi không thuận tiện thỏa mãn nhu cầu mong ước quyền lực tối cao .
Thất Sát và Liêm Trinh đồng cung, Liêm Trinh là nhu so với Thất Sát là cương, lúc này rất cần xem xét những sao phụ tá hội hợp mà định, hung thì rơi vào nhục dục, cát thì phẩm cách ngay thật chính trực, lại mang vài phần hơi thở, mùi vị văn nghệ, phong phú nho nhã mà tuyệt đối không hạ lưu. Nhưng Thất Sát xung chiếu Liêm Trinh Thiên Phủ, hoàn toàn có thể thêm vào nhiều cảm hứng bùi ngùi, thường thường hiểu được nhân sinh chẳng qua là “ kính hoa thủy nguyệt ” ( trang mờ đáy nước ) ( * ), lúc này khiến Thất Sát tựa như vị chiến tướng gặp phải núi cao thình lình trước mặt, còn quân lính thì một đạo cầm đao đang mang sẹo một đạo cầm giáo thì bị thương, tổng thể ghi nhận đều trong thế phải vùng vẫy đấu tranh .
Thất Sát Vũ Khúc đồng cung là tổng hợp tinh hệ rất là tích cực, nhưng khiếm khuyết năng lực dự báo, dẫn đường ; nhưng Thất Sát có Vũ Khúc Thiên Phủ hội chiếu, Thất Sát đứng độc lập ngược lại mới hoàn toàn có thể thuận tiện phát huy năng lực nhưng lại thuận tiện biểu lộ độc tài, vì vậy ở phương diện năng lượng chỉ huy có khuyết điểm. Trong những loại tổng hợp tinh hệ Thất Sát, loại tổng hợp này tốt đẹp hơn ở chổ sóng gió ít mà lại nhỏ, nếu ước mong yên ổn trong đời sống đương nhiên nên gặp cách cục này .
Thất Sát Độc Tọa Tý Ngọ
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối lập có “ Vũ khúc Thiên phủ ” đồng độ, những cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa .
Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy hoàn toàn có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “ Hùng tú kiền nguyên ”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian nan sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất khó khăn vất vả, khó khăn, khiến cổ nhân có thuyết “ nhảy sông trầm mình ”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu .
Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “ quyền uy ” hay thuộc loại “ khắc kị ” .
Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “ khắc kị ”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những đặc thù của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “ Hùng tú kiền nguyên ” .
Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có đặc thù “ quyền uy ” .
Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị, tác động ảnh hưởng tới đặc thù của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo ngại, tuy không ảnh hưởng tác động đến tính “ quyền uy ”, nhưng đời người khó khăn hơn .
Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “ khắc kị ”. Nếu lại gặp những sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo ngại, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “ trống không ” .
Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “ khắc kị ” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “ Hỏa tinh Kình dương ” đồng thời bay đến, thì tính “ khắc kị ” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn thương tâm, sức khỏe thể chất cũng có yếu tố .
Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “ quyền uy ” .
Cung hạn “ Thái âm Thái dương ” đồng độ, Thất sát thuộc loại “ khắc kị ” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “ quyền uy ” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “ khắc kị ” của Thất sát, tính “ khắc kị ” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “ quyền uy ” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “ khắc kị ” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí còn bị người gây lụy .
Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “ Thái âm Thái dương ” để an cung, thì ngoài những đặc thù kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì thế gây ra những tác nhân không tương thích với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh ( Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi ) .
Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm những Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “ quyền uy ”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp .
Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp những sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra nguy hiểm, nếu nguyên cục là loại Thất sát “ khắc kị ” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn thương tâm ngã xuống .
Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “ khắc kị ” càng là bất lợi. Đạo “ xu cát tị hung ” là làm những nghề có tương quan đến “ máu ”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể … để giảm thiểu tính “ khắc kị ” .
Thông thường, Thất sát “ quyền uy ” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt đẹp. Thất sát “ khắc kị ” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có những Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt đẹp. Nếu hội những sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “ khắc kị ” đến cung hạn này là vận hung hiểm .
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “ khắc kị ” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không không thay đổi, những sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn thương tâm, bệnh tật. Thất sát “ quyền uy ” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt .
Xét lưu niên, Thất sát “ khắc kị ” phần lớn đều không an tâm, nhưng Thất sát “ quyền uy ” lại là năm định hình sự nghiệp .
Cung hạn “ Vũ khúc Thiên phủ ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “ quyền uy ” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “ khắc kị ”, thì phải có lưu diệu cát tường như ý hội hợp với “ Vũ khúc Thiên phủ ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị “ hóa ”, thì chủ về bị tai nạn thương tâm rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “ khắc kị ” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai .
Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “ khắc kị ” cũng chủ về một năm thuận tiện toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “ quyền uy ” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch .
Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm khó khăn vất vả gian nan mà thôi. Chỉ khi có những sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như mong muốn, nhưng không chủ về nạn tai .
Cung hạn “ Thiên cơ Cự môn ” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị ( ở đại hạn hay lưu niên ), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “ khắc kị ” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hụt hẫng. Nếu Thiên cơ Hóa Kị ( ở đại hạn hay lưu niên ) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “ khắc kị ” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “ quyền uy ” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm đáng tiếc mà chịu tổn thất .
Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, so với Thất sát “ khắc kị ” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “ quyền uy ”, thì đây là thời kỳ không thay đổi .
Cung hạn “ Tử vi Thiên tướng ” đồng độ, thường thì là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “ quyền uy ” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành vi mù quáng, quyết định hành động giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh đối đầu không lành mạnh. Loại Thất sát “ khắc kị ” đến cung hạn này, lại gặp những sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công xuất sắc thì đùng một cái xảy ra trắc trở .
Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê nhà, nếu không, cũng chủ về nội tâm không an tâm. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “ khắc kị ” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có mái ấm gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “ khắc kị ” phát sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “ quyền uy ” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình không ổn định .
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối lập xung chiếu là ” Vũ khúc Thiên phủ ”. Khi Thất sát ở Tý, cổ nhân có thuyết ” Vũ khúc, Phá quân, Tham lang hội hợp Tý, nhảy sông tự vẫn ” ( Vũ Phá Tham hội vu Tý, đầu hà nịch thủy ), tuy nhiên thuyết này còn phải nghiên cứu và điều tra thêm. Theo truyền thừa của Nam phái, khi Thất sát ở Tý gặp Vũ khúc, Phá quân, Tham lang, năng lượng kháng cự Hung tinh của Thất sát sẽ yếu đi, nếu có đột biến xung lực thì lại không đúng nơi đúng chỗ, cho nên vì thế Thất sát độc thủ ở Tý không bằng độc thủ ở Ngọ .
Có điều, Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, chủ về được quý nhân chăm sóc, bè bạn trợ giúp. Nếu có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc hội chiếu, lại được Vũ khúc Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền ở cung đối lập xung chiếu hiệp trợ, chủ về theo võ nghiệp, hoặc theo nghiệp chuyên quản về kinh tế tài chính kinh tế tài chính, cổ nhân gọi là ” văn võ toàn tài ”. Nhưng nếu có tứ Sát cùng chiếu, lại thêm Thiên hình, Âm sát, Thiên hư hội chiếu, chủ về chết nơi sa trường .
Nếu không gặp Cát tinh, cũng chủ về người có mưu lược, nên theo ngành công thương nghiệp, tuy cuộc sống khó tránh một lần gặp sóng to gió lớn, nhưng nhất định sẽ lại hồi sinh đứng lên .
Nếu Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ mà gặp Kình dương, Thiên hình, thì hoàn toàn có thể theo nghề bác sỹ ngoại khoa, hoặc nha sỹ. Gặp Vũ khúc Hóa Lộc hay Hóa Quyền ắt thành danh y .
Thất Sát Độc Tọa Dần Thân
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “ Tử vi Thiên phủ ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa .
Muốn luận giải thực chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “ cô độc, cao ngạo ”, hay thuộc loại “ uy quyền ” .
Thất sát thuộc loại “ cô độc cao ngạo ” hình thức bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “ uy quyền ”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “ uy quyền ” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người tiếp xúc thường lo lắng e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử .
Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới hoàn toàn có thể giải được tính “ cô độc cao ngạo ” của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa .
Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có những sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổng hợp “ uy quyền ”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “ cô độc cao ngạo ” .
Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có những sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổng hợp sao “ uy quyền ”, tính “ cô độc cao ngạo ” tuy có giảm, nhưng biến thành đặc thù “ chọn bạn rất nghiêm khắc ” .
Nếu Thất sát có những sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại “ cô độc cao ngạo ” .
Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với những sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính “ cô độc cao ngạo ” .
Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “ cô độc cao ngạo ” tuy có giảm, nhưng không thành tính “ quyền uy ” .
“ Tử vi Thiên phủ ” ở cung đối lập, rất nên Hóa Khoa, chi phối tác động ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “ uy quyền ”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “ cô độc cao ngạo ” .
Thất sát tọa mệnh, nên có thực chất thuộc loại “ uy quyền ”, nếu mệnh cách thuộc loại “ cô độc cao ngạo ” chủ về gặp nhiều trường hợp rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân gia đình bất lợi .
Thất sát đến 12 cung, đặc thù rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa biến hóa khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản :
Thất sát nặng tính “ uy quyền ” mà nhẹ tính “ cô độc cao ngạo ”, thì nên đến những cung hạn sau :
– Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối lập có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu .
– Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa .
– Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc .
– Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối lập .
– Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị .
– Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp .
– “ Tử vi Thiên phủ ” hóa làm thế nào Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa .
– Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh .
– Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh .
– Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp .
Thất sát Hóa Quyền ( bốn cung sinh ) đến những vận hạn trên, chủ về một mình đảm nhiệm việc làm, hoặc gánh vác trách nhiệm, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần lớn biến hóa theo hướng tốt đẹp. Cảnh ngộ đơn cử của nó xem đặc thù của những sao hội hợp để định .
Nếu thực chất Thất sát thuộc loại “ cô độc cao ngạo ”, đến những đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận tiện toại ý. Nguyên cục có những sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được không thay đổi. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, mặc dầu tổng hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác lập nguyên do tại những cung vị lục thân để luận giải .
Thất sát có thực chất “ uy quyền ” không nên đến những cung hạn sau đây :
– Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị
– Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có những sao Sát Hình trùng trùng .
– Thái dương lạc hãm, mà có những sao Sát Hình đến hội .
– Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la .
– Thiên cơ Hóa Kị
– Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị
– Thái âm lạc hãm Hóa Kị
– Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị
– Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu
– Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao .
– “ Liêm trinh Thiên tướng ” thuộc loại “ Hình kị giáp ấn ” .
– Thiên lương Hóa Lộc gặp những sao Sát Hao .
Lúc đến những vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “ uy quyền ” cũng sẽ gặp khó khăn vất vả, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc sống ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, thế cho nên trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu .
Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem đặc thù của những tổng hợp sao để định .
Thất sát thuộc loại “ cô độc cao ngạo ”, mà đến những đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần lớn sẽ vì quan hệ giao tế mà phát sinh việc không suôn sẻ, rủi ro xấu, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cụ thể cảnh ngộ thực tiễn .
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, cung đối lập xung chiếu là ” Tử vi Thiên phủ ”. Lúc Thất sát ở Dần gọi là ” Thất sát ngưỡng đẩu ”, khi ở Thân gọi là ” Thất sát triều đẩu ”. So sánh hai trường hợp, thì Thất sát ở Thân tốt hơn ở Dần .
“ Triều đẩu ” và ” ngưỡng đẩu ” đều là cách cục được xem là tốt, chủ về có năng lượng quản trị rất tốt, hoàn toàn có thể đảm trách việc làm một mình. Phát triển bất kể ở nghề nghiệp nào, mệnh tạo thường ở vị trí chủ chốt. Nhất là khi cung Mệnh hoặc cung Thiên di gặp Lộc tồn đồng đô, càng chủ về không phải lo thiếu thốn tiền tài. Nếu gặp Sát tinh đồng độ hoặc hội hợp, chủ về đường đời nhiều trắc trở, gập gềnh. Một khi Thất sát đóng ở cung Mệnh, thì cuộc sống ắt sẽ gặp phải một lần sóng gió rất lớn. Muốn khắc phục và vượt qua vận hạn này, thì trí lực phải hành vi thiết thực và tâm chí không hề nguội lạnh .
Thất sát ” triều đẩu ” hay ” ngưỡng đẩu ”, thường thì chủ về việc làm theo chính giới, như quản trị hành chính, quản trị nhân sự, quản trị công xưởng ; nếu có Văn xương Văn khúc hội chiếu, hoặc gặp Tử vi Hóa Khoa ở cung đối lập, hoàn toàn có thể theo nghiệp điều tra và nghiên cứu khoa học kỹ thuật ; nếu gặp Thiên phủ Hóa Khoa, hoàn toàn có thể theo nghiệp quản trị kinh tế tài chính kinh tế tài chính, hoặc quản trị công thương. Nếu chỉ gặp sao Văn, chủ về là nhà giáo mẫu mực .
Nếu gặp Sát tinh nặng, lại gặp Hóa Kị, Thiên hình, Lộc tồn, Thiên mã, có thêm Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hiệp trợ, chủ về gia nhập quân đội hay công an, cũng hoàn toàn có thể là chỉ huy chính giới .
Thất sát ưa gặp sao Lộc, vì sao Lộc hóa giải được tính cứng rắn của Thất sát ( gặp lộc, cương hóa nhu ). Nếu không gặp sao Lộc, mà có tứ Sát cùng hội chiếu, có thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, chủ về cuộc sống bị hình khắc rất nặng, còn chủ về tính ” khăng khăng một mực ”, ” ngoan cố ương ngạnh ”, nên khi xử sự thường thể hiện thái độ kịch kiệt. Vì vậy tuy phong phú nhưng vẫn bị phá tán, thất bại. Còn chủ về nhìn quá cao, tự sùng bái mình, nên khó tránh cuộc sống cô tịch. Tính chất này hoàn toàn có thể dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu .
Thất Sát Độc Tọa Thìn Tuất
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối lập sẽ là hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ”, tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu .
Muốn luận giải đặc thù của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ thực chất tính lý của Thất sát là “ lý tưởng ” hay “ ảo tưởng ” .
Trong trong thực tiễn, “ lý tưởng ” không nhất định sẽ tốt hơn “ ảo tưởng ”. Bởi vì “ lý tưởng ” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ ảo tưởng ”, tuy những tâm lý của họ không hề triển khai, nhưng trên trong thực tiễn họ hoàn toàn có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “ lý tưởng ” nhưng không thực thi được mà thôi .
Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” ở cung đối lập gây ảnh hưởng tác động hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc đặc thù hùng vĩ, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “ lý tưởng ”, trở thành người có tiềm năng để theo đuổi, dù khó khăn vất vả khổ cực vẫn không từ nan .
Nếu hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” hội hợp với những sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây tác động ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn thế nữa thường là người ngoạn mục, không thực tiễn ; cảnh ngộ đời người nhiều dịch chuyển đổi khác, mà phần lớn là không thiết yếu, có lúc thậm chí còn những biến hóa không thiết yếu đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục tiêu che đậy khuyết điểm của bản thân .
Ngoại trừ hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ”, hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng tác động đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng tác động đến Thất sát bệnh ngoạn mục, nhưng vẫn có lúc đối lập với hiện thực .
Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào ngoạn mục .
Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” ở Thìn chủ về nhiều ngoạn mục, hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” ở Tuất chủ về nhiều “ lý tưởng ”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “ lý tưởng ”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ ảo tưởng ”. Hai đặc thù này không có tương quan với thực trạng “ miếu, vượng, lợi, hãm ” của những sao .
Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét trường hợp của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “ bách quan triều củng ” mà không gặp những sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “ lý tưởng ”. Nếu gặp những sao Sát Kị Hình, , thì “ lý tưởng ” khá tầm thường, đời người đa số phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “ tại dã cô quân ”, thì thực chất của Thất sát là ngoạn mục, nếu gặp những sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương bệnh binh ở mặt trận mơ làm nguyên soái. Do những điều “ ảo tưởng ” không hề triển khai, đời người lại nhiều gian nan, vì thế thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ ảo tưởng ” không hề thực thi này, giống như sức mạnh của roi vọt thôi thúc người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời .
Thất sát thuộc loại “ lý tưởng ”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu những sao Phụ Tá cát, hoàn toàn có thể trở thành sức mạnh để thực thi “ lý tưởng ”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng tác động gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ ảo tưởng ” va chạm với hiện thực, mà biến thành “ lý tưởng ” .
Mệnh cách Thất sát “ ảo tưởng ”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những dịch chuyển biến hóa không thiết yếu. Nếu lại gặp những sao Sát Kị Hình, thì lại đổi khác một cách triệt để và tổng lực, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận .
Hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” ở Thìn bất lợi so với Thất sát, hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” ở Tuất thì có lợi hơn .
Nếu hệ “ Liêm trinh Thiên phủ ” gặp những sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ ảo tưởng ” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành vi mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “ lý tưởng ’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ .
Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi so với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “ kho trống ”, hay “ kho lộ ”, khiến Thất sát thuộc loại “ ảo tưởng ” càng tăng nặng “ ảo tưởng ”, dễ lâm vào trường hợp rắc rối khó tìm được lối thoát ; còn Thất sát thuộc loại “ lý tưởng ” thì phần lớn cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt quan trọng là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực .
Hệ “ Thiên đồng Cự môn ” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi so với Thất sát loại “ ảo tưởng ”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm ý ngăn cách. Hệ “ Thiên đồng Cự môn ” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất trinh sát mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ ảo tưởng ” rất nặng .
Thất sát thuộc loại “ ảo tưởng ” ưa đến cung hạn “ Thái dương Thiên lương ”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực thi lý tưởng. Nếu cung hạn “ Thái dương Thiên lương ” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực thi được trọn vẹn, cần phải biến hóa để thích nghi với thực trạng. Thất sát loại “ ảo tưởng ” đến cung hạn “ Thái dương Thiên lương ” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “ Thái dương Thiên lương ” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc sống lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là thời cơ để thực thi những “ ảo tưởng ”, nếu triển khai những “ ảo tưởng ”, sẽ tự tìm đến buồn chán, biến thành vận thế phá hoại bản thân .
Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi so với Thất sát thuộc loại “ lý tưởng ”, bất lợi so với Thất sát loại “ ảo tưởng ”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ ảo tưởng ”. Khi Tử vi hội hợp với những Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn ; khi Tử vi gặp những sao không cát tường như ý, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại .
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi so với Thất sát, dù mệnh cách loại “ ảo tưởng ” vẫn hoàn toàn có thể thích nghi với thực trạng. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp những sao Sát Hình, thì bất lợi so với Thất sát, dù là loại mệnh cách “ lý tưởng ”, cũng dễ vì sai lầm đáng tiếc nhất thời mà gây trở ngại cho việc triển khai mục tiêu lý tưởng của mình .
Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi!
Khi luận giải không nên ngộ nhận so với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt xấu đi của sao Thất sát .
Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý quan tâm đến thực chất “ lý tưởng ” và “ ảo tưởng ” của nó, tức cần đồng thời chú ý quan tâm đến mặt xấu đi của nó. Bởi vì, khi “ lý tưởng ” hoàn toàn có thể thực thi được, sẽ dễ rơi vào trạng thái xấu đi. Lúc “ ảo tưởng ” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái xấu đi .
Ở trên, ta đề cập đến yếu tố thực chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, quan tâm đến mặt xấu đi của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào xấu đi chỉ là nhất thời ; còn nếu hệ Tử vi là xấu đi, thì phải quan tâm, tính xấu đi sẽ trở thành thực chất của Thất sát tọa mệnh .
Thất sát thuộc loại xấu đi, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không hề đổi khác thành tích cực, trái lại, còn vì trường hợp thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu nhầm xấu đi chính là thực chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, chính bới sự trắc trở, gập gềnh của đời người hoàn toàn có thể làm tăng tính xấu đi của nó. Sự “ trung hòa ” so với mẫu người này là rất quan trọng .
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất là nhập ” Thiên la Địa võng ”, cung đối lập là những sao nhu hòa ” Thiên phủ Liêm trinh ” không hề giúp Thất sát thoát khỏi ” Thiên la Địa võng ”, vậy nên Thất sát phải một thân một mình gắng gượng. Kết cấu tinh hệ kiểu này, khiến mệnh cách phải trải qua khó khăn, miệt mài phấn đấu chẳng hề quan ngại, vì thế mà sóng gió trùng trùng .
Có thể sáng lập được sự nghiệp trong gian nan, nhưng mệnh tạo vẫn không hài lòng với những hiệu quả đã đạt, cũng như những thành tựu mà mình đã đạt được. Không ngừng theo đuổi lý tưởng, mà lý tưởng lại càng lúc càng cao, kế hoạch mới cũng càng lúc càng nhiều, suốt đời không có được một ngày thảnh thơi, nhưng mệnh tạo lấy đó làm nguồn vui .
Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, đều chủ về mệnh cách là người có chỗ sở trường, có năng lực kiến giải hơn người, ưa Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Lộc Quyền Khoa tam cát hóa hội chiếu hoặc đồng độ, là người văn võ song toàn, lại còn chủ về người yếu thích văn hóa truyền thống văn nghệ .
Thất sát ở Thìn hoặc ở Tuất, chỉ sợ Liêm trinh Hóa Kị ở cung đối lập xung chiếu ức hiếp, nếu lại gặp Sát tinh trùng trùng, thì cần phải xem xét những cung vị khác, xem cung nào là cung chí mệnh của nó. Nếu cung Tài bạch không tốt, cuộc sống phần lớn gặp tranh chấp, hoảng sợ khó xử về phương diện tài lộc. Nếu cung Sự nghiệp không cát tường như ý, cuộc sống nhiều lần bị vỡ nợ, sập tiệm. Nếu cung Tật ách không cát tường như ý, cả đời sức khỏe thể chất không tốt, phần lớn phải phẫu thuật, hoặc gặp một phen hú vía. Nếu cung Phu thê không tốt, bình sinh gặp nhiều sóng gió, trắc trở về tình cảm, hoặc người phối ngẫu gặp xấu số. Nếu cung Tử nữ không tốt, con bị nạn tai bệnh tật, yểu mạng, hoặc phạm pháp .
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, tam phương tương hội có Tham lang Hóa Kị gặp Sát tinh, chủ về mệnh tạo luôn luôn lo ngại về tiền tài bị túng thiếu, trong khi thực trạng thu nhập lại không như ý muốn. Đó là vì lý tưởng đặt ở mức quá cao, sự nghiệp lan rộng ra một cách quá đáng, mà không chủ về nghèo khó. Tham lang Hóa Kị ắt sẽ gặp Phá quân Hóa Lộc, càng chủ về một đời chỉ thích khai sáng, mà không chịu thủ thành. Khi Tham lang Hóa Lộc mà không gặp Sát tinh, chủ về cuộc sống mệnh tạo luôn có tiền để dùng, nhưng lại không tích góp được ; còn khi Tham lang Hóa Lộc mà gặp Sát tinh, không những chủ về tiêu xài xa hoa, mà còn thích tổ chức triển khai tiệc tùng đi dạo, giao du không biết tiết chế .
Thất Sát Triều Đẩu
Sao Thất sát trấn mệnh, nhập cung Tý, Ngọ, Dần, Thân lại gặp Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi Việt gia hội là hợp cách cục này. Sao Thất Sát nhập miếu tại cung Thân, Vượng tại cung Tý, Ngọ. Nên Thất Sát trấn mệnh tại cung Thân, Ngọ là ” Triều đẩu ” ( Chầu về Bắc Đẩu ), Trấn mệnh tại cung Dần, Tý là ” Ngưỡng đẩu ” ( Ngửa trông Bắc Đẩu ), cách cục này có mang sát khí, nên bản thân phát đạt ắt sẽ khiến một số ít người khác gặp tai ương, hoặc cũng hoàn toàn có thể khiến nhiều người phải chết vì mình. Nếu lá số gặp cách cục này, chủ về theo nghiệp võ sẽ hiển quý, thống lĩnh phần đông quân đội, nếu không cũng là người sáng lập công ty, là nhân tài kinh doanh thương mại, chắc như đinh sẽ giàu to. Nếu gặp cát tinh gia hội, nhưng lại gặp hung tinh là phá cách, chủ về nhiều thăng trầm, lên voi xuống chó, chóng phất, chòng bại mặc dầu phát lộc cũng không hề duy trì được lâu bền, không chỉ có vậy đa số đều gặp kết cục xấu. Nếu gặp cát tinh tai ương sẽ được tiêu giảm bớt mà trở thành cách cục bình thườn. Nếu không gặp cát tinh, lại bị hung tinh nằm cùng cung hoặc gia hội, sẽ trở thành mệnh xấu, chủ về tàn tệ, bạo tàn, tàn tật, dạt dẹo, phạm tội, tù ngục, tuổi thọ không được cao .
Ưu điểm : Cuộc đời nhiều dịch chuyển, tuổi trẻ nguy hiểm, nhưng có mưu lược, có năng lực, kiên trì nhẫn nại, có năng lượng phát minh sáng tạo, hoạch định, nghiên cứu và phân tích, tư duy, gan góc, quyết đoán, khắc phục được khó khăn vất vả, để đạt được thành công xuất sắc, chức tước vinh quang .
Khuyết điểm : Là cách cục biến hóa từ Sát Phá Tham, dê mắc phải thị phi, khó tránh khỏi dạt dẹo khó khăn vất vả .
Ca Quyết :
Cách danh triều đẩu quý vô nghi
Nhập miếu tu giao phúc lộc tề
Liệt liệt trùng trùng danh hiển diệu
Bình sinh an ổn hảo căn nguyên
Thất sát Dần Thân Tý Ngọ cung
Tứ di củng thủ phục anh hùng
Khôi Việt, Tả Hữu, Văn Xương hội
Khoa lộc danh cao thực vạn chung
Nghĩa là :
Cách cục triều đẩu là đáng quý
Nhập miếu phúc lộc được vẹn hay
Rực rỡ uy danh thân hiển hách
Một đời yên ổn vững vàng thay
Thất sát tại Dần, Thân, Tý Ngọ
Khắp nơi quy phục kẻ anh hùng
Gặp Khôi, Việt, Tả, Hữu, Xương Khúc
Công dah hiển đạt lộc muôn trùng
Kinh văn có viết : ” Thất Sát triều đẩu tước lộc vẻ vang ”. ” Thất Sát tại Dần Thân, Tý Ngọ một đời ăn lộc cực vinh quang ”, “ Triều đẩu, Ngưỡng đẩu, tước lộc vẻ vang ”, ” Thất Sát trấn mệnh, miếu vượng có mưu lược, gặp Tử Vi lại gặp những cát tinh ắt thành đại tướng ”, ” Thất Sát trấn mệnh được Tả, Hữu, Xương, Khúc hội chiếu có được quyền sinh sát, giàu sang siêu phàm ”, ” Thất Sát nhập cung thân mệnh, gặp cát tinh cũng phải nếm trải nguy hiểm ” .
Sao Tử Vi Thất Sát Đồng Cung
Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối lập là Thiên phủ, cung tam phương là “ Vũ khúc Tham lang ” và “ Liêm trinh Phá quân ” hội hợp .
Mệnh bàn loại này cấu trúc thuần tính vật chất, những sao hội hợp can đảm và mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh .
Muốn luận giải thực chất của hệ “ Tử vi Thất sát ” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt đặc thù cực đoan của chúng, là thuộc vào loại “ quyền uy ” hay thuộc vào loại “ hoành hành bá đạo ” .
Mệnh cách thuộc loại “ quyền uy ”, phần lớn tăng trưởng theo khuynh hướng chính nghĩa, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách “ hoành hành bá đạo ” dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ “ Tử vi Thất sát ” thủ mệnh, không có tính cực đoan can đảm và mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong đặc thù mà thôi .
Bản thân hệ “ Tử vi Thất sát ” đã có đặc thù quyền lực tối cao, thế cho nên không nên làm mạnh thêm đặc thù quyền lực tối cao của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “ hoành hành bá đạo ”. Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới hoàn toàn có thể tiêu trừ khí “ hoành hành bá đạo ”, lại không có những sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “ Tử vi Thất sát ” thuộc vào loại “ quyền uy ” .
Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có những sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành đặc thù “ hoành hành bá đạo ”, mà mệnh cách chủ về “ quyền uy ” .
Nhưng nếu không có những sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “ Hỏa tinh Đà la ”, hoặc gặp hệ “ Kình dương Linh tinh ” đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ “ Tử vi Thất sát ” biến thành “ hoành hành bá đạo ”, đời người sẽ gặp nhiều trắc trở .
Cung đối lập là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì hoàn toàn có thể giải được đặc thù “ hoành hành bá đạo ” của hệ “ Tử vi Thất sát ”. Dù không hề nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “ quyền uy ”, nhưng không ít cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận tiện hơn .
Cung tam phương tương hội là hệ “ Vũ khúc Tham lang ”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “ Tử vi Thất sát ” nhiều khó khăn vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được tận hưởng .
Cùng một lý, hệ “ Liêm trinh Phá quân ” cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn khó khăn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc .
Bản thân hệ “ Tử vi Thất sát ” dù không có đặc thù “ hoành hành bá đạo ”, cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng tác động ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng tác động khiến hệ “ Tử vi Thất sát ” thành “ hoành hành bá đạo ”, mặc dầu Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa .
Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “ quyền uy ”, mà không phải thuộc loại mệnh cách “ hoành hành bá đạo ”. Khi có những sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “ tương hòa ”, khiến mệnh cách “ Hỏa Tham ”, “ Linh Tham ” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá .
Hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” chủ về dễ thành công xuất sắc, đời người có nhiều thuận tiện toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm ; nếu thành mệnh cách “ hoành hành bá đạo ”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều .
Cung hạn “ Liêm trinh Phá quân ”, thích hợp với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” mà không thích hợp với hệ “ Tử vi Thát sát ” loại “ hoành hành bá đạo ”, mệnh cách thuộc loại “ quyền uy ” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa “ hoành hành bá đạo ” mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “ Hỏa Tham ”, “ Linh Tham ”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm hoàn toàn có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập .
Nếu gặp những sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “ Hình kị giáp ấn ” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “ quyền uy ” đến cung hạn này, chủ về bị áp lực đè nén cạnh tranh đối đầu, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái ; mệnh cách thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn .
Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận ; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều rủi ro tiềm ẩn, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh .
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “ kho lộ ”, “ kho trống ”, thì bất kể hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên đa số đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh gọn .
Thiên phủ là “ kho đầy ”, lại không có Sát tinh tụ hội, hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận tiện toại ý ; Còn hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình .
Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp những sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt quan trọng .
Do đặc thù không thích hợp, vì thế khi hệ “ Tử vi Thất sát ” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thường thì không được tiến thủ .
Cung hạn “ Thiên đồng Thái âm ” đồng độ, thường thì hệ “ Tử vi Thất sát ” ưa đến. Do hệ “ Tử vi Thất sát ” chủ về khó khăn vất vả, khi đến cung hạn “ Thiên đồng Thái âm ” thì hoàn toàn có thể được yên tĩnh, thế cho nên được xem là vận trình tận hưởng của hệ “ Tử vi Thất sát ” thuoock loại “ quyền uy ”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe thể chất không tốt, nhất là cần quan tâm bệnh tim mạch .
Hệ “ tử vi Thất sát ” đến cung đại vận “ Thiên đồng Thái âm ”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh .
Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “ Tử vi Thất sát ” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không hề hành vi. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật .
Cung hạn “ Vũ khúc Tham lang ” đồng độ, thích hợp với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ”, mà không thích hợp với loại “ hoành hành bá đạo ”. Hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có những Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp những sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn thông thường. Hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh đối đầu, rắc rối, thị phi, nếu thành cách “ Hỏa Tham ” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền .
Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.
Xem thêm: Lập lá số tử vi
Nếu cung hạn có những sao Sát Kị Hình tụ hội, so với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ”, chủ về bị cạnh tranh đối đầu, thu hoạch không được như lý tưởng ; Còn đôi với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” thì phần lớn là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành vi của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh .
Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt quan trọng quan tâm họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi .
Cung hạn “ Thái dương Cự môn ” đồng độ, hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” không ưa Thái dương quá vượng, do đó khi đến cung hạn ở Dần có hệ “ Thái dương Cự môn ” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách “ quyền uy ” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn .
Nếu cung hạn “ Thái dương Cự môn ” có những sao Sát Kị Hình tụ tập, so với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi ; Còn so với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên quan tâm .
Đối với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “ tín hiệu lệnh ”, mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc ; Còn so với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thường thì .
Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách “ Hình kị giáp ấn ”, đây là vận trình bị áp lực đè nén và trắc trở của hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có thời cơ nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” mà gặp hạn “ Hình kị giáp ấn ” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính cải tiến vượt bậc, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi .
Gặp hạn “ Tài ấn giáp ấn ”, hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ hoành hành bá đạo ” cần phải an phận giữ mình thì sẽ văn minh, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là tác nhân khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại .
Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “ Tử vi Thất sát ” đến cung hạn này, đều nên “ tĩnh ” mà không nên “ động ”, nếu “ động ” sẽ gây tồn thất .
Cung hạn “ Thiên cơ Thiên lương ” đồng độ, cũng có lợi so với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ”, mà bất lợi so với hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ bá đạo ”, thường thường là bất lợi so với lục thân, gặp hạn đời cô lập .
Cung hạn “ Thiên cơ Thiên lương ” được cát hóa và có Cát tinh, hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ quyền uy ” đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “ Tử vi Thất sát ” thuộc loại “ bá đạo ” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có những sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “ bá đạo ” càng dễ vì cuộc sống chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân trong gia đình, bạn hữu .
Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi so với người có mệnh cách “ bá đạo ”, chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, so với người có mệnh cách “ quyền uy ” thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi .
Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách “ quyền uy ” hay loại người mệnh cách “ bá đạo ”, đều không nên đến cung hạn này, so với người có mệnh cách “ quyền uy ”, hoàn toàn có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân ; còn so với người có mệnh cách “ bá đạo ”, vì biến thái tâm ý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa .
Thất sát và Tử vi đồng độ ở Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung, có uy thế không ai so bì được. Cho nên chủ về giầu tính khai sáng, hơn thế nữa, còn có tư tưởng độc lạ .
Thông thường, tinh hệ ” Tử vi Thất sát ” hoàn toàn có thể xem là tượng trưng cho quyền lực tối cao, do đó Tử vi không nên Hóa Quyền, vì khi Tử vi Hóa Quyền chủ về có lòng ham muốn quyền lực tối cao quá cao, có biểu lộ ” khí bá đạo ”, khiến cho hội đồng thao tác xa gần rất khó đồng ý .
Tinh hệ ” Tử vi Thất sát ” rất cần những Cát tinh hội chiếu. Như có Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, khi được những Cát tinh này hội hợp, thì tính cương dũng của Thất sát có đất dụng võ, đây là cái gọi ” hóa sát làm quyền ” của mệnh cách này. Nhưng, giả dụ không có những Cát tinh hội chiếu, thì cách cục này giống như ” anh hùng thảo dã biến thành giặc cướp ”, khó tránh khỏi có những bộc lộ ” tàn tệ, bá đạo ”, chủ về tăng trưởng lên một cách nhanh gọn, rồi suy sụp cũng rất nhanh gọn .
Nếu như không có những Cát tinh, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh được ” hình thương, khắc hại ” .
Nữ mệnh gặp tinh hệ ” Tử vi Thất sát ”, nếu gặp Sát tinh, tuy có thời cơ đổi khác nhưng lại khó được như ý nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội thì phải đồng ý trải qua nhiều sự dịch chuyển biến hóa, thì mới có được ích lợi .
Sao Liêm Trinh Thất Sát
Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối lập là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “ Tử vi Tham lang ” và “ Vũ khúc Phá quân ”, đặc thù cấu trúc của tổng hợp sao khá phức tạp .
Muốn luận đoán thực chất của tinh hệ “ Liêm trinh Thất sát ” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “ mừng quýnh ” hoặc thuộc loại “ cương bạo ” .
“ Liêm trinh Thất sát ” thuộc cách “ Hùng tú kiền nguyên ” ở Mùi, gặp những Cát tinh, đặc biệt quan trọng là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “ mừng thầm ”, thường thì, chủ về trải qua khó khăn mà thành đại nghiệp, khác với “ Liêm trinh Thất sát ” có tính “ cương bạo ” .
Gọi là “ cương bạo ”, là nói đặc thù của những sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần lớn mệnh cách có biểu lộ bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn đáng tiếc, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải dạt dẹo khó khăn vất vả rất nhiều .
“ Liêm trinh Thất sát ” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà những sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “ mừng thầm ”. Đây là điều kiện kèm theo cơ bản .
Nếu mệnh cách “ Liêm trinh Thất sát ” không có sao Lộc, dù gặp những Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “ mừng quýnh ”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc .
Nếu mệnh cách “ Liêm trinh Thất sát ” không có sao Lộc, lại hội hợp với những sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “ cương bạo ”, mức độ “ cương bạo ” nặng hay nhẹ, thì phải xem những sao Sát Kị nhiều hay ít để định .
“ Liêm trinh Thất sát ” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “ cương bạo ” của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi thực chất “ mừng cuống ”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “ mừng cuống ” .
Lộc tồn không nên đồng độ với “ Vũ khúc Phá quân ”, mà nên đồng độ với “ Tử vi Tham lang ”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “ Vũ khúc Phá quân ”, dù khiến “ Liêm trinh Thất sát ” có thực chất “ hoan hỉ ”, những vẫn bị áp lực đè nén quấy nhiễu, gây khó khăn vất vả về tâm ý, làm tác động ảnh hưởng đến sự nghiệp .
Thiên phủ ở cung đối lập có ảnh hưởng tác động rất lớn so với thực chất của “ Liêm trinh Thất sát ”. Nếu Thiên phủ là “ kho trống ”, “ kho lộ ” sẽ gây tác động ảnh hưởng khiến “ Liêm trinh Thất sát ” biến thành “ cương bạo ” ; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây tác động ảnh hưởng khiến “ Liêm trinh Thất sát ” thành mệnh cách “ mừng quýnh ” .
Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ hoan hỉ ” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt ; nếu nguyên cục có những sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt ; nếu gặp những sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền tài mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân gia đình trắc trở .
Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ .
Cung hạn “ Vũ khúc Phá quân ” đồng độ, “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ phấn phát ” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có thời cơ sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có những sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng vẻ bên ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “ Vũ khúc Phá quân ” thì thuần túy về nhục dục .
“ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” nhập vào cung hạn “ Vũ khúc Phá quân ” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “ lập công ở biên cương ”, thế cho nên tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi dạt dẹo khó khăn vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với những sao Sát Kị, mà “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng nguy hiểm .
“ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì hoàn toàn có thể sinh ly tử biệt. “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ mừng quýnh ” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về nổi tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “ Liêm trinh Thất sát ”, bất kể thuộc loại thực chất “ mừng thầm ” hay “ cương bạo ” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách .
Cung hạn Thiên phủ độc tọa, so với đặc thù của “ Liêm trinh Thất sát ” cực kỳ đơn thuần, “ cương bạo ” thì bất lợi, thất bại ; “ mừng thầm ” thì cát lợi, có thu hoạch .
Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thôi thúc tăng trưởng, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu những sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại .
Cung hạn “ Thiên cơ Thái âm ” đồng độ, “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất không thay đổi. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất không thay đổi mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất không thay đổi là không tốt .
Cung hạn “ Tử vi Tham lang ” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “ Liêm trinh Thất sát ” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đối đầu đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang thực chất “ mừng thầm ”, cũng chủ về xảy ra áp lực đè nén rất lớn trong sự nghiệp, phải rất khó khăn để hóa giải. Nếu “ Tử vi Tham lang ” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm xúc căng thẳng mệt mỏi, buồn giầu lo ngại, thậm chí còn có cảm xúc đời người hư ảo .
Thông thường “ Liêm trinh Thất sát ” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, so với “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tài lộc không có trở ngại. “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “ phản bối ” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đùng một cái phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu .
“ Liêm trinh Thất sát ” loại “ mừng cuống ” gặp Cự môn của cục “ phản bối ”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt đẹp, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi .
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thường thì là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “ Liêm trinh Thất sát ”. Bản chất “ cương bạo ” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng dính yếu, còn thực chất “ mừng cuống ” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có vị thế cao .
Ở lưu niên, nếu “ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” gặp cung hạn thuộc loại “ Hình kị giáp ấn ” chủ về chuốc lấy thị phi, vì thế không nên cố xuất đầu xuất hiện thêm, cũng không nên đổi khác nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn đáng tiếc, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác lập rõ thêm đặc thù của cung hạn này .
“ Liêm trinh Thất sát ” loại “ cương bạo ” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ ( Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ ) .
“ Liêm trinh Thất sát ” loại “ mừng thầm ” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời gian này là lúc kết giao những mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực .
Nữ mệnh “ Liêm trinh Thất sát ” không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang thực chất “ mừng cuống ” hay thực chất “ cương bạo ”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia tay với mái ấm gia đình, anh chị em bệnh mất .
Sao Thất sát và sao Liêm trinh đồng cung ở Sửu hoặc ở Mùi, tam phương hội hợp với những sao ” Vũ khúc Phá quân ” và ” Tử vi Tham lang ”, và gặp Thiên phủ ở cung Thiên di. Kết cấu này tuy toàn là sao mạnh, nhưng bị Thiên phủ của cung đối lập gây tác động ảnh hưởng, nên, lại chủ về muốn khai sáng nhưng lại quá thận trọng, sở trường nhất là quản lý tài chính, thường không vì hưng phấn nhất thời mà phạm sai lầm đáng tiếc, có điều vẫn khó tránh khỏi chìm đắm trong thú hưởng lạc .
Liêm trinh bị tác động ảnh hưởng bởi Thất sát, nên đa số tâm tính hay đổi khác, thế cho nên không hề thao tác quá lâu ở một bộ phận chuyên trách nào, cũng như không hề theo đuổi một vấn đề quá lâu dài hơn, khi thực trạng việc làm phải tuân thủ theo thời hạn vĩnh viễn, thường phát sinh tâm trạng buồn chán, chán nản, hờ hững, nhiệt tình thuyên giảm, thường không theo đuổi việc làm từ đầu đến cuối, do vậy tính kiên trì và năng lực chịu đựng thường ảnh hưởng tác động đến mệnh cách. Mệnh tạo cũng không được thừa kế tổ nghiệp hoặc giữ nghiệp của cha, thậm chí còn còn không ưa thừa kế nghề của cha. Do hay biến hóa, nên đời người cũng khó tránh phải trải qua nhiều khó khăn .
“ Thất sát Liêm trinh ” ưa dịch chuyển biến hóa, nên thích hợp với những chức vị hành chính, do đặc thù đào hoa của Liêm trinh bị Thất sát ảnh hưởng tác động tác động ảnh hưởng, nên có tính yêu quý văn hóa truyền thống văn nghệ, nhất là thi phú âm nhạc ; nếu gặp Văn xương Văn khúc hội hợp, sở trường thích nghi yêu văn nghệ càng tăng trưởng ; nếu gặp thêm những sao Sát Kị cùng tụ tập, đa số khó tránh có những sở trường thích nghi không lành mạnh phong hoa tuyết nguyệt, say đắm tửu sắc. Nhưng bất kể thế nào, mệnh tạo sẽ không vì tửu sắc mà khuynh gia phá sản .
Kết cấu tinh hệ giầu tính dịch chuyển biến hóa, thích quản lý tài chính, nên thường muốn hợp tác với người để thôi thúc sự nghiệp kinh doanh thương mại, nhưng trong quy trình hợp tác, nếu ở cương vị chỉ huy hay ở cương vị chủ chốt, thì việc làm kinh doanh thương mại và sự nghiệp sẽ tăng trưởng không thuận tiện. Có từ hai ba Sát tinh trở lên hội chiếu, thì nên chuyển hướng theo ngành công nghệ tiên tiến .
“ Thất sát Liêm trinh ” thủ mệnh, chủ về đường hô hấp yếu ; nếu có Hồng loan, Thiên hỷ đồng cung và so sánh, chủ về mắc bệnh hen xuyễn. Nếu Hóa Kị mà còn gặp Đà la đồng độ, phần lớn chủ về bệnh máu mủ. Có Hóa Kị lại gặp tứ Sát hội cùng chiếu, mà không có Hóa Lộc hoặc có Lộc tồn và Văn xương Văn khúc giải cứu, chủ về cả đời thân thể hư nhược, hoặc yểu mạng ; Có tứ Sát cùng chiếu mà còn gặp những sao Hình Kị, chủ về những bệnh máu như tăng bạch huyết cầu, thiếu máu bẩm sinh, bệnh máu trắng .
Tinh hệ ” Thất sát Liêm trinh ” đồng độ, khi mà Liêm trinh Hóa Kị còn gặp tứ Sát, cổ nhân có thuyết ” chôn thây trên đường ” ( lộ thượng mai thi ) ; vào đại hạn Bính ( như Bính Tý, Bính Dần, … ), hoặc lưu niên Bính, cần phải đặc biệt quan trọng cẩn trọng, không nên đi xa .
Nữ mệnh gặp tinh hệ ” Thất sát Liêm trinh ”, thường dung mạo ưa nhìn, nhưng khó bị người khác giới dụ dỗ, cung Phu tất có Thiên tướng, nếu không gặp những sao Sát Kị thì hôn nhân gia đình niềm hạnh phúc, phu xướng phụ tùy, vợ chồng đồng lòng thì sự nghiệp ắt sẽ tăng trưởng, nhưng phần lớn dễ vì đối tượng người dùng không hợp ý mà kết hôn muộn. Thích hợp nhất là lấy chồng hơn mình tám tuổi trở lên .
“ Thất sát Liêm trinh ” của đại hạn và lưu niên, chủ về có dịch chuyển biến hóa, gặp Cát tinh thì thăng quan tiến chức tăng trưởng rộng, hoặc được tăng lương, chủ về có tích góp ; gặp Sát tinh thì không nên dữ thế chủ động đổi khác. Nếu những sao Hình Kị cùng đến, nhất là Vũ Khúc Hóa Kị gặp Liêm trinh Hóa Kị, mà không gặp Hóa Lộc, Lộc tồn giải cứu, cần phải đề phòng tai nạn đáng tiếc chảy máu, không nên đi xa, tránh mọi tranh chấp kiện tụng .
Sao Vũ Khúc Thất Sát Đồng Cung
Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “ Tử vi Phá quân ” và “ Liêm trinh Tham lang ” .
Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần quan tâm phân biệt xem chúng thuộc loại “ quyết đoán ” hay thuộc loại “ nông cạn ” .
Thực ra, “ quyết đoán ” sáng suốt và tâm lý “ nông cạn ” chỉ cách nhau một đường ranh, chính do “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại tâm lý “ nông cạn ”, hình thức bề ngoài vẫn giống như người “ quyết đoán ” sáng suốt, trong lúc nội tâm chần chừ, thiếu quyết đoán, vẫn hoàn toàn có thể đưa ra một quyết định hành động sáng suốt và nhanh gọn, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm đáng tiếc và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ hình thức bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được .
“ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ quyết đoán ” sáng suốt, thì phần lớn đều có chừa đường để lui, còn loại người tâm lý “ nông cạn ”, thì phần lớn là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này hoàn toàn có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này .
Luận giải đặc thù của “ Vũ khúc Thất sát ”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “ quyết đoán sáng suốt ”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “ tâm lý nông cạn ” .
Lấy những sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “ Tử vi Phá quân ” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm thực chất “ tâm lý nông cạn ” của hệ “ Vũ khúc Thất sát ” ; nếu không có Sát tinh, mà có những sao Phụ Tá hội hợp, thì hoàn toàn có thể gây ảnh hưởng tác động cho hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thành thực chất “ quyết đoán sáng suốt ” .
Hệ “ Liêm trinh Tham lang ” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt quan trọng khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tác động tới hệ “ Vũ khúc Thất sát ” càng thêm quan trọng .
Văn xương, Văn khúc có năng lực điều hòa đặc thù “ tâm lý nông cạn ” của hệ “ Vũ khúc Thất sát ”, điều kiện kèm theo tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối lập chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “ Liêm trinh Tham lang ”. Nguyên nhân hầu hết là vì hệ “ Liêm trinh Tham lang ” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng tác động đến lực “ quyết đoán sáng suốt ” của hệ “ Vũ khúc Thất sát ” .
Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “ Vũ khúc Thất sát ”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “ tâm lý nông cạn ” nhập hạn cung độ này, thì lại phát sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng tác động đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc đặc thù nào cũng đều bất lợi. Hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ quyết đoán sáng suốt ” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ tâm lý nông cạn ”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi thao tác, lại gặp thêm những sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo .
Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, so với hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ tâm lý nông cạn ”, đây là năm mất thời cơ, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “ quyết đoán sáng suốt ” chỉ cần phòng thủ thì hoàn toàn có thể tránh được tổn thất .
Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có thời cơ, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh đối đầu không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau .
Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ tâm lý nông cạn ” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “ kho lộ ”, “ kho trống ”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ quyết đoán sáng suốt ” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp .
Cung hạn Thiên phủ thường thì bất lợi cho mệnh cách “ Vũ khúc Thất sát ”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát .
Hệ “ Vũ khúc Thất sát ” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội những sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “ tâm lý nông cạn ” chủ về vì chắp vá điều sai lầm đáng tiếc mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “ xu cát tị hung ” là biết có sai lầm đáng tiếc thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng lê dài thì tổn thất càng lớn .
Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “ Vũ khúc Thất sát ” thuộc loại “ quyết đoán sáng suốt ”, chủ về vì một quyết định hành động trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “ tâm lý nông cạn ” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “ tĩnh ” không nên “ động ”, “ động ” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trả thay cho họ .
Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “ Thạch trung ẩn ngọc ”, thì loại mệnh cách “ quyết đoán sáng suốt ” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ những sao hội hợp để định sau khi chuyển biến đổi khác, thì cát hung sẽ như thế nào .
Mệnh cách thuộc loại “ tâm lý nông cạn ” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “ Thạch trung ẩn ngọc ”, vận hạn cũng không cát tường như ý, thường sai lầm đáng tiếc ở quá trình ở đầu cuối, hoặc vì quyết định hành động sai lầm đáng tiếc mà bị chỉ trích, oán trách .
Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “ Hình kị giáp ấn ”, thì hệ “ Vũ khúc Thất sát ” sẽ cảm thấy bị áp lực đè nén, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “ quyết đoán sáng suốt ” thì khá dễ đối phó, tìm được giải pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “ tâm lý nông cạn ” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực đè nén niềm tin càng nặng, chủ về thất bại .
Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “ Tài ấm giáp ấn ”, thì bất kể mệnh cách thuộc thực chất nào, cũng đều chủ về “ mọi toan tính chỉ phí sức ”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là thời cơ tốt để định hình sự nghiệp một đời .
Cung hạn hệ “ Thiên đồng Thiên lương ” tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có đặc thù quá cô độc và hình khắc, thì hệ “ Vũ khúc Thất sát ” mà gặp cung hạn này, phần lớn có tang. Nếu hệ “ Thiên đồng Thiên lương ” hội hợp với những sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc .
Ba cung hạn “ Vũ khúc Thất sát ”, Liêm trinh Tham lang ” và “ Tử vi Phá quân ”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn so với mệnh cách hệ “ Vũ khúc Thất sát ” tọa mệnh .
Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “ quyết đoán sáng suốt ”, còn mệnh cách “ tâm lý nông cạn ” thì bất lợi .
“ Thất sát Vũ khúc ” đồng độ ở Mão hoặc ở Dậu ; tổng hợp cấu trúc những sao cực kỳ can đảm và mạnh mẽ, cần phải được Tả phụ Hữu bật vây chiếu, nếu được gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, thì những ” tế ngộ ” trong cuộc sống mới được thuận tiện toại ý ; nếu không dễ sống trong tình cảnh cô lập, không có cứu viện, mà còn bị phá tài .
Đặc tính của tinh hệ này là nhạy bén, nhưng lại hay nóng vội, mưu tính nhiều nhưng lại không nhìn xa ; tinh xảo, sáng suốt, có năng lượng thao tác, nhưng lại hay thích sát phạt, cần được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc điều hòa, mới hoàn toàn có thể biến thành mưu trí, lão luyện, mà không bị rơi vào tệ tâm lý thiển cận, bạc tình. Nếu được Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên mã hội chiếu, có năng lực được hưởng phúc trạch dày .
“ Thất sát Vũ khúc ” ở Mão, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, cổ nhân nói có tai ương ” cây đè sét đánh ”, xã hội thời nay cần đề phòng thêm tai ương điện giật. Khi ở Dậu, có Hóa Kị hoặc gặp Sát tinh, chủ về tai ương nguy hiểm, bất ngờ đột ngột, dễ mắc bệnh ung thư, hoặc bệnh ở đầu .
“ Thất sát Vũ khúc ” có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về vì lợi lộc mà xảy ra nguy hiểm ; lại gặp Vũ khúc Hóa Kị và Kiếp sát, hoặc có Đại hao đồng độ, chủ về gặp tai nạn đáng tiếc trộm cướp ; có Kình dương đồng độ, chủ về vì tài lợi mà gẫy đổ ; nếu gặp Liêm trinh Hóa Kị, chủ về tai nạn thương tâm chảy máu hoặc bệnh nặng phải phẫu thuật .
Do hợp lực những sao quá mạnh, khiến cho mệnh tạo luôn sung sức, thao tác có phách lực và nghị lực cao, ở thời tuổi trẻ nếu mạnh dạn bốc đồng làm ăn đầu tư mạnh mạo hiểm, thường không có hiệu suất cao, chủ về thất bại .
“ Thất sát Vũ khúc ” tam phương có Lộc tồn Thiên mã đồng độ với ” Liêm trinh Tham lang ”, hoặc Lộc tồn ở cung đối lập hiệp trợ cùng với Cát tinh hội hợp, là điềm tượng ” anh hùng mạt lộ gặp quý nhân ”, chủ về đùng một cái phát đạt trong cảnh khốn khó .
“ Thất sát Vũ khúc ” hội hợp với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, sao Hình, thì nên gia nhập quân đội hay công an hoặc là công tác làm việc bảo an. Nếu Sát tinh quá nhiều, chủ về làm đồ tể. Nếu có văn tinh, hoặc gặp cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về hợp với nghiệp bác sỹ ngoại khoa, gặp Liêm trinh Hóa Kị thì thích hợp theo khoa phụ sản .
“ Thất sát Vũ khúc ” có những sao Sát Hình, mà gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì trái lại, nên làm ăn kinh doanh thương mại .
Nữ mệnh ” Thất sát Vũ khúc ”, nên lấy chồng hơn mình tối thiểu tám tuổi .
Cung mệnh của đại hạn, hoặc cung mệnh của lưu niên có ” Thất sát Vũ khúc ”, chủ về dịch chuyển biến hóa lớn. Thấy có Hóa Kị chủ về bị đình chỉ chức vụ, có rủi ro tiềm ẩn vỡ nợ hay sập tiệm ; gặp Sát tinh là gặp trắc trở hoặc sức khỏe thể chất không tốt .
Bàn thêm về Sao Thất Sát
Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “ tướng tinh ”. Trong Đẩu Số có hai “ tướng tinh ” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên tương hỗ thanh thế cho nhau .
Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ tướng trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “ lao tâm ”, Phá quân chủ về “ lao lực ”. Thất sát chủ về hành vi một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi tín hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ tướng .
Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “ Tử vi Phá quân ” lại có xung đột quyền lực tối cao. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự tinh chỉnh và điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trách nhiệm tiên phong, nhiều lúc khó tránh trường hợp công thủ, tiến thoái bị xích míc. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “ Tử vi Thất sát ”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực tối cao càng lớn, “ hóa sát làm quyền ” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra trường hợp xung đột quyền lực tối cao .
Thất sát có tính “ cứng rắn và hình khắc ”, là sắc thái đặc biệt quan trọng của Thất sát. Do tính “ cứng rắn và hình khắc ”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện kèm theo, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “ Tử vi Thất sát ” đồng cung, có những Phụ diệu và Tá diệu “ triều củng ” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách .
Cổ nhân có thuyết “ Thất trinh sát mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng ” ( Thất trinh sát mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng ). Còn có thuyết “ Thất trinh sát mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, giàu sang hơn người ” ( Thất trinh sát mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phong phú xuất chúng ) .
Thất sát gặp những sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “ cứng rắn và hình khắc ” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian truân. Cổ nhân nói “ Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh ” ( Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược ), “ Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền ” ( Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong ) .
Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường như ý, cổ nhân nói “ Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê nhà ” ( Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối ), cổ nhân còn nói “ Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai ương tổn thương ” ( Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương ) ; “ Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương ” ( Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên ) ; cấu trúc hung hiểm nhất là “ Thất trinh sát mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung ” ( Thất trinh sát chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong ), đây là nói về cấu trúc “ Kình dương Đà la trùng điệp ” .
Phàm những thuyết tương quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp .
Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “ Hùng tú kiền nguyên ”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, đặc thù biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn ( Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi ), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, do tại âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, vì vậy không ưa gặp những sao “ dương cương ” gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “ Liêm trinh Thất sát ” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa .
Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối lập có “ Tử vi Thiên phủ ”, gọi là “ Thất sát ngưỡng đẩu ”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối lập có “ Tử vi Thiên phủ ” gọi là “ Thất sát triều đẩu ”. “ Triều đẩu ” và “ ngưỡng đẩu ” đều chủ về cuộc sống gặp nhiều thời cơ, còn chủ về năng lượng quản trị tốt. Nếu gặp “ tam cát hóa ” có thêm Cát tinh chủ về đại quý ; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà kĩ năng quản trị được phát huy .
Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc sống sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở ; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “ hành vi thiết thực ” để giữ vững thực trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc sống sẽ được bè bạn hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó .
Khi nhìn nhận trường hợp cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải quan tâm tính “ cứng rắn và hình khắc ” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “ cứng rắn và hình khắc ” ắt sẽ “ hình phu khắc tử ”, đời người khó tránh cô tịch .
Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “ Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi ” ( Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi ), “ Tuyệt địa ” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “ Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần ”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc sống nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, cấu trúc tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ tiên tiến, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thường thì .
Cổ nhân nói “ Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng kinh nghiệm tay nghề khéo để mưu sinh ” ( Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh ). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp những sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm mưu trí tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “ sát khí ”, tức chọn những nghề dính dáng đến sắt kẽm kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “ Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể ” ( Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân ) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có vị thế cao trong xã hội .
“ Thất sát Liêm trinh ” đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, không chỉ có vậy còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “ Sát củng Liêm trinh cách ”, chủ về đi xa có chuyện nguy hiểm. Có thuyết “ Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường ” ( Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi ), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải .
Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối lập với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau của chúng .
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối lập với “ Vũ khúc Thiên phủ ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “ Thất sát Vũ khúc ” đồng độ ; cho nên vì thế bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổng hợp “ Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ ” .
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “ Liêm trinh Thiên phủ ” ; ở Sửu hoặc ở Mùi có “ Thất sát Liêm trinh ”, cho nên vì thế bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổng hợp “ Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ ” .
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “ Tử vi Thiên phủ ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “ Tử vi Thất sát ” đồng độ, vì vậy bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổng hợp “ Tử vi, Thất sát, Thiên phủ ” .
Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời hạn bị lắm chướng ngại. Sách viết : ” Nhị cung phùng chi định lịch gian tân ” ( Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải nguy hiểm tân khổ )
Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công xuất sắc sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý tác động ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ dạt dẹo chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay .
Thất Sát có những thế đứng sau đây : đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu .
Sách viết : ” Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh ”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “ Sát hãm Chấn Đoài ” ( Chấn là Mão, Đoài là Dậu )
Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với những hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai ương không nhỏ, hầu hết do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi lúc còn sinh nguy khốn. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất .
Thất Sát hợp nhất với Tử Vi ( đã nói không ít trên phần luận về Tử Vi ). Sách viết : ” Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền ” .
Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “ Thất Sát ngưỡng đẩu ” hay “ Thất Sát triều đẩu ” .
Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên quy tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đứng luẩn quẩn văn vẻ làm gì nửa văn nửa vũ thành nửa mùa tất hành vi xích míc và thành công xuất sắc kém ác liệt .
Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ do đó mà quyền lực tối cao quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệt giao tế sinh lắm quân địch, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực tối cao quyết liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân lãnh đạm, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy nguy hiểm và lúc về già cô quạnh .
Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiênma bách triết mới thành công xuất sắc .
Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung : Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “ Ngưỡng đẩu ” với “ triều đẩu ”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “ Hùng tú càn nguyên cách ”
Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý quan tâm rằng : ” Thất Sát Ngọ mới đúng “ hùng tú càn nguyên ” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách ” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm : ” Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “ hùng tú càn nguyên ”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi .
Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát .
Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rât cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc sống ít nguy hiểm .
Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ .
Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành vi dữ thế chủ động thao tác tích cực thế cho nên Thất Sát mới được coi làm tướng tinh .
So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng triết lý trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy chỉ huy, Cơ Lương quản lý và điều hành. Thất Sát điều khiển và tinh chỉnh, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc sống Thất Sát thường có những nút chuyển biến kinh hoàng triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở .
Người xưa quan ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây :
“ Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh
Bình sinh tác sự quả mưu trí
Chí cao khí đại vô nam nữ
Bất miễn hình phu lịch khổ tân ”
( Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, thao tác mưu trí tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải dạt dẹo khó khăn vất vả )
“ Thất Sát cô tinh Tham tú phùng
Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí
Nữ mệnh đắc thử tính vô lương
Chi hảo cô phòng vi tì thiếp ”
( Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số dịu dàng êm ả bạc nghĩa liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu )
“ Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng
Ác sát gia chi dâm sảo dung
Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ
Tì thiếp thị phụng gia chủ ông ”
( Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu )
Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà tinh tế, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hũ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát giờ đây đều là những người đàn bà thành công xuất sắc thao tác giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi .
Có một điều khá đúng chuẩn là : Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú : ” Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi ” ( Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao khó khăn vất vả dễ rơi vào thực trạng lẽ mọn )
Bàn về câu : ” Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi ” ( Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường ). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “ hùng tú càn nguyên ” thì tại sao còn có câu này ?
Các nhà số học Trung Quốc lập luận : ” Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không trọn vẹn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào ?
Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất yếu không “ lộ thượng mai thi ”. Một điều chắc như đinh hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không ( ? ) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có đời sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút ít khác thường .
Nếu đem hai câu viết ở mục Trú giải Thái vi phú : “ Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai ( Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển ) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi ” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm thế nào còn chết ở quê nhà ?
Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, ( tất yếu thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu ) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên .
Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành vi không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hang lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát kinh hoàng của Thất Sát .
Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ ý và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ do đó hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn năng lực thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất yếu sẽ cực hơn .
Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu hết xích míc :
Thất Sát lâm Thân chung thị yểu
Thất Sát cư Thân hưởng đắc bảo đảm an toàn chi phúc
Yếu hay Phúc chỉ là yếu tố hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm những hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được .
Thất Sát có nhiều câu phú cần điều tra và nghiên cứu :
– Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân
( Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực )
– Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư
( Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu việc làm )
– Sát Phá hỉ trợ Kình Dương
( Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công xuất sắc mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hại ví như người cưỡi cọp )
– Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật
( Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình )
– Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
( Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi kinh nghiệm tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm )
– Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong
( Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp nguy hiểm nơi trận mạc )
– Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân
( Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được )
– Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong
( Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ biến hóa cuộc sống mình )
– Sát Kinh tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn
( Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng con người )
– Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong
( Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham quy tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng ( Tuất ) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ )
– Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ
( Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình )
– Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai
( Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ )
– Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
( Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu )
– Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân
( Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng )
– Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
( Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có đời sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công xuất sắc gây cơ dựng nghiệp )
– Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư
( Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực )
– Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
( Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La ; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ )
– Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân
Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành
( Sát Phá Liêm Tham đắc địa quy tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì thao tác gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận )
– Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn
( Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại )
– “ Mấy người thủy ách, hỏa tai
Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham ”
( Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn thương tâm sông nước )
– “ Dần Thân Sát Kị trùng gia
Thương chiêu đá mạ thật là khó khăn ”
( Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền phức )
– “ Sinh con điếc lác ngẩn ngơ
Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không ”
– “ Sát phùng Phù Hổ hay đâu
Dã Tràng thưa ấy âu sầu buồn bã ngục trung ”
– “ Sát tinh chiếu ở cung Đoài
Vì người tham của Phật đài họa toa ”
( Câu này không rõ nghĩa lắm )
– “ Ngôi cao chức trọng công hầu
Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung ”
– “ Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát
Tính cang kiên tài cán đảm đương
Được thêm Kỷ Ất sinh nhân
Anh hùng trí dũng mười phần khá khen ”
– “ Sát Kình ở tại Ngọ cung
Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc sống
Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế
Bậc anh hùng vị thế thênh thênh ”
– “ Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi
Sát Phá Tham lại hội Văn Xương
Ấy là góa bụa đáng thương
Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình ”
– Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân
( Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương )
– Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân
( Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót )
– Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương
( Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tâm thương tích )
– Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết
( Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ )
– Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược
( Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc sống khó khăn vất vả chướng ngại, dễ thành dễ bại )
– “ Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá
Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi
Ấy phường tàn tệ hôi tanh sá gì ”
– “ Thìn Tuất Thất Sát xem qua
Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên”
Vương Đình Chi với Thất Sát
Lục Bân Triệu luận Thất Sát
Sao Chủ Thân Thất Sát
Sao chủ mệnh Thất Sát
Thất Sát nhập hạn ca
Sao Thất Sát Ở Cung Thiên Di
Sao Thất Sát Ở Cung Tài Bạch
Sao Thất Sát Ở Cung Quan Lộc
Sao Thất Sát Ở Cung Điền Trạch
Sao Thất Sát Ở Cung Phúc Đức
Sao Thất Sát Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Thất Sát Ở Cung Tử Tức
Sao Thất Sát Cung Phu Thê
Sao Thất Sát Ở Cung Huynh Đệ
Sao Thất Sát Ở Cung Nô Bộc
Sao Thất Sát Ở Cung Tật Ách
Hình tượng sao Thất Sát trong Tử Vi – Hoàng Phi Hổ
Thay lời kết
Phàm, Thất trinh sát mệnh, nếu gặp Sát tinh, đời người ắt sẽ có chỗ thiếu sót, hoặc không hề giàu sang, hoặc phong phú mà vợ chồng hình khắc phân ly, hoặc hôn nhân gia đình niềm hạnh phúc mà lại không có con, hoặc có con mà lại không có con trai, hoặc có con trai mà bản thân nhiều bệnh tật. Nếu Lục thân không có khiếm khuyết, khung hình khỏe mạnh thì lại không được giàu sang. Cho nên cần phải xem xét tổng lực 12 cung để nhận thức những khiếm khuyết đáng tiếc của nó .
Nữ mệnh có Thất sát nhập miếu, gặp những sao Cát như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Ân quang, Thiên vu, Thiên thọ, chủ về phong phú sống thọ, nhưng có chí hướng hơn chồng. Nếu Thất sát ở hãm địa, gặp Hóa Kị, hội hợp với Hung tinh, Sát tinh như Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, Thiên hư, Âm sát, Thiên nguyệt, thì nửa đời cô độc, hoặc nạn tai tật bệnh đeo đẳng theo người, chủ về làm kế thất, hoặc ở hai nơi, như vậy cũng làm giảm hình khắc so với chồng và con cháu .
Đại hạn và lưu niên, có Thất sát nhập cung mệnh, nếu Thất sát nhập miếu, gặp những Cát tinh, chủ về sự nghiệp gặp thời cơ chuyển biến tốt, làm công ăn lương thì chủ về được thăng chức hoặc quy đổi công tác làm việc tốt hơn. Nếu lạc hãm, gặp Sát tinh và Hung tinh, chủ về hình khắc phá tán, thất bại, xem 12 cung để luận giải nguyên nhân ở cung nào ? mệnh cách cao hay thấp ? Nếu gặp Hung tinh mà được cát hóa, bất kể Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, đều chủ về trước nguy sau an. Nếu lạc hãm mà có tứ Sát cùng chiếu, lại gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Thiên hình, chủ về có rủi ro tiềm ẩn đến tính mạng con người .
Source: Thabet
Category: Phong thủy