Tiểu thuyết gia Kim Dung và Liệt cường “Võ Lâm Ngũ Bá”
‘Võ lâm ngũ bá’ trong tiểu thuyết Kim Dung gồm những ai?
01/11/2018
Bạn đang đọc: Tiểu thuyết gia Kim Dung và Liệt cường “Võ Lâm Ngũ Bá”
“Võ lâm ngũ bá” hay “Thiên hạ ngũ tuyệt” là cụm từ mô tả năm nhân vật có võ công cao cường nhất trong “Xạ điêu tam bộ khúc” của tác giả Kim Dung.
Nhà văn Kim Dung ra đi và để lại cho người hâm mộ kho tàng tác phẩm đồ sộ. Trong đó, những chiêu thức võ thuật từng là thơ ấu, là ký ức khó quên của bao người.
Theo lời kể của Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông với Quách Tĩnh, trước thời kỳ của Xạ điêu anh hùng truyện, quần hùng tranh giành bí kíp võ công Cửu Âm chân kinh, dẫn tới nhiều cuộc đổ máu. Cuối cùng, các cao thủ bậc nhất Trung Nguyên quyết định tụ họp trên đỉnh Hoa Sơn, quyết đấu để phân định “thiên hạ đệ nhất nhân”.
Người thắng lợi sẽ được quyền giữ bộ Cửu Âm chân kinh. Có năm đại cao thủ tham gia vào cuộc Hoa Sơn luận kiếm tiên phong. Đó là Đông Tà Hoàng Dược Sư, Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Đoàn Trí Hưng, Bắc Cái Hồng Thất Công và Trung Thần Thông Vương Trùng Dương.
Vương Trùng Dương vượt mặt toàn bộ và được thừa nhận là “ thiên hạ đệ nhất nhân ”, được quyền giữ Cửu Âm chân kinh. Dẫu vậy, mỗi vị trong nhóm “ Thiên hạ ngũ tuyệt ” đều có công phu độc môn riêng và số phận độc lạ.
Vương Trùng Dương theo Đạo gia, Đoàn Trí Hưng sau này quy y cửa Phật, Hồng Thất Công hành hiệp trượng nghĩa, Âu Dương Phong nghiền ngẫm độc công, Hoàng Dược Sư giương ngọn cờ tà … Vị nào cũng độc lạ và gây giật mình với fan hâm mộ.
Đông Tà Hoàng Dược Sư
Hoàng Dược Sư tính tình tà quái, kiêu ngạo tự mãn.
Đông Tà trí tuệ siêu việt nên võ thuật của ông cũng cực kỳ phức tạp. Ông nổi tiếng với tuyệt kỹ ạn Chỉ thần công, Lạc Anh thần kiếm chưởng, Ngọc Tiêu kiếm pháp, Lan Hoa phất huyệt thủ, Toàn Phong tảo diệp thoái … Với cây sáo trên tay, Hoàng Dược Sư chỉ cần thổi khúc Bích Hải Triều Sinh là đủ để những kẻ công lực yếu hơn trở nên điên dại.
Trong “ Võ lâm ngũ bá ”, Hoàng Dược Sư có lẽ rằng là nhân vật được Kim Dung miêu tả biến hóa nhất, thâm thúy nhất. Ông là bậc kỳ tài, không riêng gì là tông sư võ học mà còn tinh thông cầm kỳ thi họa, y bốc tướng số, toán số thao lược, ngũ hành kỳ môn … Trên hòn đảo Đào Hoa, nơi Hoàng Dược Sư cư ngụ, những cây đào cũng hoàn toàn có thể trở thành trận pháp khiến những kẻ lạc bước điên đảo thần hồn.
Tuy nhiên, Hoàng Dược Sư quả thật tính tình tà quái, kiêu ngạo tự mãn, coi trời bằng vung. Khi hành tẩu giang hồ, ông đeo mặt nạ vì cảm thấy những kẻ tầm thường không đáng nhìn thấy diện mạo ông.
Bị Quách Tĩnh hiểu nhầm là kẻ sát hại nhóm Giang Nam thất quái, Hoàng Dược Sư chẳng thèm lý giải, ngang ngạnh đồng ý món nợ máu, dẫn đến cuộc đấu sống mái với nhóm Toàn Chân thất tử.
Vợ ông đánh lừa Lão Ngoan Đồng để lấy Cửu Âm chân kinh, nhưng khi bà qua đời vì bạo bệnh thì ông lại đổ tội cho Chu Bá Thông hại chết bà. Khi hai đệ tử là Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong đánh cắp nửa bộ Cửu Âm chân kinh, Hoàng Dược Sư giận cá chém thớt, bẻ gãy chân của những đệ tử vô tội khác và đuổi họ đi.
Tính cách cổ quái của Hoàng Dược Sư nhiều lần suýt hại chết Quách Tĩnh và Hoàng Dung, khiến chuyện tình duyên của họ rơi vào cảnh lận đận.
Tây Độc Âu Dương Phong
Tây Độc Âu Dương Phong vì luyện sai Cửu Âm chân kinh nên phát điên.
Âu Dương Phong bị những người căm ghét lão gọi là “Lão Độc Vật” không chỉ bởi bản tính xấu xa, tàn độc, tham lam. Chủ nhân Bạch Đà sơn ở Tây Vực chuyên pha chế những chất kịch độc không ai giải nổi. Trong Lộc đỉnh ký, thứ độc dược tiêu xác mà Vi Tiểu Bảo sử dụng chính là tác phẩm của Âu Dương Phong, được truyền lại qua hàng trăm năm.
Tuyệt kỹ của Tây Độc là Cáp Mô công ( tư thế con cóc ), chuyên lấy tĩnh chế động, có uy lực khác thường. Lão còn có một thứ võ thuật đắc ý khác là Linh Xà quyền ( võ rắn ), từng khiến Bắc Cái phải hoảng sợ. Không chỉ vậy, Âu Dương Phong còn là kẻ tài hoa, giỏi đàn tranh.
Cuộc đấu tiếng tiêu của Âu Dương Phong, tiếng đàn của Hoàng Dược Sư và tiếng hú của Hồng Thất Công trên hòn đảo Đào Hoa là một trong những trường đoạn giao chiến rực rỡ nhất trong tiểu thuyết Kim Dung.
Âu Dương Phong là kẻ mặc kệ luân thường đạo lý, tư thông với chị dâu sinh ra Âu Dương Khắc, tìm cách ăn trộm Cửu Âm chân kinh nhưng bị Vương Trùng Dương đánh trọng thương, sát hại năm người trong nhóm Giang Nam thất quái và đổ vạ cho Hoàng Dược Sư.
Bị Hoàng Dung dạy Cửu Âm chân kinh xô lệch, Âu Dương Phong phát điên nhưng lại càng lợi hại, vượt mặt cả Hoàng Dược Sư, Hồng Thất Công và Quách Tĩnh trên đỉnh Hoa Sơn, và chỉ bị khuất phục bởi tài trí của Hoàng Dung.
Ở Thần điêu hiệp lữ, Âu Dương Phong không còn là một kẻ tà ác. Vẫn bị điên, lão nhận Dương Quá làm con nuôi, truyền cho chàng võ công chống độc, sau này tỷ thí nhiều ngày với Hồng Thất Công trên đỉnh Hoa Sơn đến suy kiệt nội lực mà chết. Hai đại cao thủ một đời đối đầu nhau, ở phút cuối ôm nhau cười to, xóa hết hận thù.
Nam Đế Đoàn Trí Hưng
Nam Đế Đoàn Trí Hưng hối hận vì không cứu con Anh Cô nên quy y cửa Phật.
Khi tham gia Hoa Sơn luận kiếm, Đoàn Trí Hưng đã là vua nước Đại Lý. Gia tộc họ Đoàn ở Đại Lý rất tinh thông võ nghệ, có tuyệt kỹ Nhất Dương chỉ lợi hại. Đây chính là môn võ khắc chế Cáp Mô công của Âu Dương Phong, đồng thời cũng là chiêu thức chữa trị nội thương kỳ diệu.
Tính cách và tình cảm của Đoàn Trí Hưng được Kim Dung hé lộ qua lời kể của Chu Bá Thông với Quách Tĩnh. Vì lo lắng Âu Dương Phong, Vương Trùng Dương dẫn Chu Bá Thông tới Đại Lý gặp Đoàn Trí Hưng, tiếng là muốn học hỏi Nhất Dương chỉ, ý đồ thực là truyền Tiên Thiên công cho Nam Đế.
Nhưng Chu Bá Thông tư thông với Anh Cô, phi tần của Nam đế, khiến nàng mang thai và sinh con. Đoàn Trí Hưng vô cùng tức giận và đau khổ. Một ngày, ác nhân Cừu Thiên Nhận xâm nhập Đại Lý, đánh đứa bé một chưởng rất nặng.
Ý đồ của hắn là khiến Nam Đế phải hao tổn nội lực giải cứu đứa trẻ, không còn là mối rình rập đe dọa trong lần Hoa Sơn luận kiếm tiếp theo. Bởi dùng Nhất Dương chỉ để cứu người sẽ khiến Đoàn Trí Hưng phải mất hàng tháng mới hoàn toàn có thể phục sinh công lực.
Đoàn Trí Hưng là vua một nước, đồng thời là đại cao thủ võ học, nhưng cũng chỉ là một con người thông thường, có yêu thương, có ghen tuông mù quáng. Ông không chịu cứu đứa trẻ vô tội, khiến Anh Cô vô vọng, tự tay đâm chết con rồi bỏ đi. Đau đớn và hối hận, Đoàn Trí Hưng xuống tóc đi tu.
Sau này, ông dùng Nhất Dương chỉ cứu sống Hoàng Dung khi nàng bị Cừu Thiên Nhận giáng một chưởng vào lưng. Trên đỉnh Hoa Sơn, ông giúp Cừu Thiên Nhận giác ngộ, khiến hắn quy y cửa Phật. Sang đến Thần điêu hiệp lữ, sau bao năm rốt cuộc ông cũng hóa giải được thù hận với Anh Cô.
Bắc Cái Hồng Thất Công
Hồng Thất Công còn có biệt danh là Cửu Chỉ thần cái.
Hồng Thất Công có lẽ rằng là nhân vật đáng yêu nhất trong nhóm “ Võ lâm ngũ bá ”. Ông là bậc đại hiệp chính khí lẫm lẫm, nhưng cũng có một phần tục khí. Bang chủ Cái Bang rất ham ăm ham rượu, đến nỗi một lần mải ăn khiến huynh đệ gặp nạn. Ông tức giận chặt một ngón tay để tự răn mình, từ đó có biệt danh Cửu chỉ thần cái.
Nhưng rốt cuộc Hồng Thất Công vẫn không bỏ được tật tham ăn. Hoàng Dung tinh quái, gặp một lần là phát hiện ra điểm yếu của Bắc Cái, dùng cao lương mĩ vị để dẫn dụ ông dạy võ thuật cao siêu cho Quách Tĩnh.
Hồng Thất Công có hai môn bí kíp vô cùng lợi hại. Đầu tiên là Hàng Long thập bát chưởng, môn chưởng pháp cương mãnh số 1 võ lâm, đơn thuần nhưng rất khó luyện. Nhờ học được Hàng Long thập bát chưởng mà Quách Tĩnh có sự nâng tầm về võ thuật, trở thành một cao thủ thực sự.
Thứ hai là Đả Cẩu bổng pháp, môn võ trấn sơn của bang chủ Cái Bang. Hồng Thất Công hiếm khi sử dụng Đả Cẩu bổng pháp, thậm chí còn trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm ông cũng chỉ dùng Hàng Long thập bát chưởng.
Trong cuộc cạnh tranh đối đầu với Âu Dương Phong trên đỉnh Hoa Sơn, Bắc Cái truyền 36 chiêu Đả Cẩu bổng cho Dương Quá để trình diễn cho Tây Độc xem. Âu Dương Phong tâm lý bạc đầu mới phá được chiêu thức ở đầu cuối.
Hồng Thất Công là một trong số ít những đại hiệp chân chính trong tiểu thuyết Kim Dung. Cuối Xạ điêu anh hùng truyện, trên đỉnh Hoa Sơn, Hồng Thất Công thể hiện rõ chính khí, vạch rõ mọi sai trái của Cừu Thiên Nhận, khiến y hối cải quy y, và Quách Tĩnh rũ bỏ được cơn mê loạn.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương
Vương Trùng Dương là nhân vật võ công cao siêu nhất trong nhóm “Võ lâm ngũ bá”
Vương Trùng Dương là một nhân vật đặc biệt trong Xạ điêu tam bộ khúc. Thực tế là ông chưa bao giờ xuất hiện trực tiếp, mà chỉ được mô tả lại qua lời kể của Chu Bá Thông và qua những bức thư ông để lại cho nữ hiệp Lâm Triều Anh mà Dương Quá và Tiểu Long Nữ tìm thấy trong Cổ Mộ.
Vương Trùng Dương vốn là một lãnh tụ khởi nghĩa chống quân Kim, vì thất bại nên quay về núi Chung Nam lập ra Toàn Chân giáo. Ông có người sư đệ Chu Bá Thông và bảy đệ tử, được gọi là Toàn Chân thất tử “.
Võ công của Vương Trùng Dương theo đường lối Đạo gia, vô cùng thâm sâu, gồm có Tiên Thiên công, Toàn Chân kiếm pháp, Thiên Cang Bắc Đẩu trận … Ở cuộc Hoa Sơn luận kiếm tiên phong, Vương Trùng Dương vượt mặt Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái để trở thành thiên hạ đệ nhất nhân.
Lão Ngoan Đồng khẳng định chắc chắn nếu tham gia một cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, chắc như đinh Vương Trùng Dương cũng sẽ vô địch nhờ nội công Đạo gia thâm hậu, huyền ảo.
Ở Thần điêu hiệp lữ, những bức thư ông để lại cho nữ hiệp Vương Triều Anh giúp độc giả hình dung rõ ràng hơn về chưởng môn Toàn Chân giáo. Rõ ràng ông không phải là người vô tình, mà có tình cảm thực sự với Lâm Triều Anh. Tác giả Kim Dung không giải thích rõ lý do họ không đến với nhau, nên độc giả chỉ có thể suy đoán.
Về sau, Vương Trùng Dương bị bệnh nặng và qua đời. Trước khi chết, ông đoán Âu Dương Phong sẽ đến cướp Cửu Âm chân kinh, nên lập mưu giả chết, dùng Nhất Dương chỉ đánh Tây Độc trọng thương, phải bỏ trốn về Bạch Đà sơn. Hiếu Trung
Kim Dung đánh bại mọi võ lâm cao thủ, trở thành ‘đệ nhất’ như thế nào?
31/10/2018
Kim Dung không phải là người mở đầu tiểu thuyết võ hiệp tân phái Trung Hoa, nhưng xuất sắc vượt qua mọi tác giả khác, trở thành đệ nhất cao thủ không ai sánh nổi.
Kim Dung là người đi sau Lương Vũ Sinh, bậc “khai sơn trưởng lão” của tiểu thuyết võ hiệp tân phái. Nhưng từ lúc viết Xạ điêu anh hùng truyện (1958) cho đến khi qua đời ngày 30/10/2018, Kim Dung luôn được đánh giá là “võ lâm minh chủ” của văn đàn võ hiệp Trung Quốc, đứng trên Cổ Long và Lương Vũ Sinh một bậc và vượt rất xa các nhà văn khác.
Tiểu thuyết Kim Dung tạo ra cơn sốt “ Kim học ” thời thập niên 1980, điều mà những danh gia như Cổ Long, Lương Vũ Sinh, Ngọa Long Sinh hay Ôn Thụy An có mơ cũng không được. Thậm chí năm 1994, những giáo sư khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Bắc Kinh đưa Kim Dung vào vị trí thứ tư trong Top 10 đại sư nghệ thuật và thẩm mỹ tiểu thuyết Trung Quốc.
Kim Dung được xếp thứ tư trong Top 10 đại sư nghệ thuật tiểu thuyết Trung Quốc.
Theo list này, Kim Dung chỉ xếp sau những tên tuổi lừng lẫy như Lỗ Tấn, Thẩm Tòng Văn và Ba Kim. Điều đó có nghĩa là Kim Dung không chỉ là “ võ lâm minh chủ ” quốc tế tiểu thuyết võ hiệp, mà còn được công nhận là một bậc đại sư nghệ thuật và thẩm mỹ tiểu thuyết nói chung.
Đây là sự kiện gây chấn động văn đàn Trung Quốc khi đó, dẫn đến nhiều tranh cãi. Bởi ở Trung Quốc, tiểu thuyết võ hiệp là “ tục văn học ” ( văn học tầm trung ), chỉ để vui chơi, không có giá trị như “ nhã văn học ” ( văn học bác học ). Vì sao một tác gia “ tục văn học ” lại hoàn toàn có thể ngồi chung mâm với những bậc trưởng thượng “ nhã văn học ” ?
Võ đầy sáng tạo
Theo nhà nghiên cứu văn học Trần Mặc, tác giả cuốn Võ hiệp ngũ đại gia (NXB Trẻ – 2003), điểm đặc sắc nhất của tiểu thuyết Kim Dung là “nhã tục cộng hưởng” (người cao nhã và bình dân đều say mê). Chúng vượt qua ranh giới phân chia “nhã” và “tục”, vượt ra ngoài biên giới của tiểu thuyết võ hiệp.
Tác phẩm Kim Dung cũng tả võ, chuyện hành hiệp trượng nghĩa và những biến ảo ly kỳ của giới giang hồ giống như bao cuốn “ truyện chưởng khác ”. Nhưng võ – hiệp – kỳ của Kim Dung lại trọn vẹn độc lạ so với phần còn lại.
Trước hết là chuyện “võ”. Kim Dung có lẽ là tác gia tiểu thuyết võ hiệp duy nhất không chỉ mô tả võ như cách đánh nhau, mà ông nghệ thuật hóa, cá tính hóa, thậm chí triết lý hóa võ công. Đơn cử, cuộc đấu nội lực của Âu Dương Phong, Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công trên đảo Đào Hoa trong Xạ điêu anh hùng truyện chẳng khác gì một màn biểu diễn nghệ thuật đặc sắc.
Cuộc đấu giữa Tiểu Long Nữ và Kim Luân pháp vương trong Thần điêu hiệp lữ cũng không khác gì một màn trình diễn âm nhạc.
Tương tự, trận chiến giữa Chu Tử Liễu và vương tử Mông Cổ Hoắc Đô (Thần điêu hiệp lữ) là cuộc biểu diễn thư pháp đầy thú vị. Ở Ỷ Thiên Đồ Long ký, Trương Tam Phong biến bộ thư pháp về đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên thành một môn võ tuyệt luân, khiến Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cam bái hạ phong.
Hơn nữa, nhiều môn võ của Kim Dung chứa đựng ý niệm sống sâu xa. Quách Tĩnh học võ của rất nhiều thầy để rồi trở thành đại cao thủ với hàm ý học mọi người để vượt lên họ.
Kiếm pháp của Độc Cô Cầu Bại mà Dương Quá lĩnh hội nói về những tầng bậc nhận thức của đời người, Thái Cực kiếm của Trương Tam Phong và Độc Cô cửu kiếm mà Lệnh Hồ Xung học đều chứa đựng triết lý thâm sâu. Còn võ học tối cao trong Hiệp khách hành phản ánh quan niệm “sở chi chướng” (sự giới hạn bởi nhận thức).
Sự đậm chất ngầu hóa võ thuật trong truyện Kim Dung cũng là điều rất rõ. Quách Tĩnh tính tình thuần hậu, rất thích hợp với Hàng long thập bát chưởng, môn võ đơn thuần nhưng cứng rắn. Hoàng Dung quá mưu trí nên được Bắc Cái dạy Đả cẩu bổng pháp, môn võ biến hóa khôn lường. Còn Vi Tiểu Bảo là tên lưu manh nhát gan, nên chỉ biết môn khinh công lợi hại, chạy rất nhanh khi nguy khốn ập tới.
Từ đại anh hùng tới tên lưu manh
Tiểu thuyết võ hiệp đương nhiên phải viết về hiệp khách, những người chuyên hành hiệp trượng nghĩa. Chính điểm này khiến mô hình văn học này dễ đi vào lối mòn, thiếu sự phát minh sáng tạo. Như Lương Vũ Sinh luôn bị chê là chỉ viết về “ người tốt việc tốt ”. Còn nhân vật của Cổ Long quanh đi quẩn lại chỉ có vài ba dạng người.
Ngược lại, các nhân vật của Kim Dung rất sinh động và đa dạng. Trần Gia Lạc của Thư kiếm ân cừu lục có vẻ là hiệp khách lý tưởng, nhưng bản chất yếu đuối tự ti, thậm chí là hèn. Quách Tĩnh có thể coi là đại hiệp 100% duy nhất trong truyện Kim Dung, tuy nhiên xuất thân thấp kém, chỉ là một cậu bé khù khờ.
Trong khi đó, Dương Quá xuất thân có vết nhơ, cha nuôi là đại ác nhân Âu Dương Phong, phản bội sư môn ( Toàn Chân giáo ), sau bao biến cố mới trở thành hiệp khách. Dương Quá sống đầy tình cảm, đậm chất con người, đậm chất hiện thực.
Trương Vô Kỵ xuất thân nửa chính nửa tà ( cha là học trò phái Võ Đang, mẹ là đường chủ Thiên Ưng giáo ). Chàng giáo chủ Minh giáo không thực sự có khí phách anh hùng, kiên cường kinh hoàng, ngược lại rất thân mật, hiền lành giống như một người trẻ tuổi thông thường trong đời sống.
Vi Tiểu Bảo (trong ảnh do Huỳnh Hiểu Minh thể hiện trong bản phim truyền hình Lộc đỉnh ký 2008) được đánh giá là nhân vật thể hiện “quốc dân tính” của người Trung Quốc.
Địch Vân của Liên thành quyết chỉ là một gã nhà quê có số phận bi thảm, là nhân vật rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Lệnh Hồ Xung là lãng tử, đấu tranh vì tự do cá nhân, có nhiều khuyết điểm nhưng thông minh dễ thương, tình sâu nghĩa nặng.
Còn Vi Tiểu Bảo là một tên lưu manh mạt hạng, sinh ra và lớn lên trong lầu xanh, mang bản năng sống sót cực mạnh. Đối với Vi Tiểu Bảo, hoàng cung nhà Đại Thanh cũng chẳng khác nào một kỹ viện khổng lồ. Do đó, hắn thuận tiện sống sót và vươn lên nhờ những thủ đoạn học ở lầu xanh.
Vi Tiểu Bảo tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, mượn gió bẻ măng. Trong cuốn Võ hiệp ngũ đại gia, nhà nghiên cứu Trần Mặc đánh giá Vi Tiểu Bảo là “đệ nhất kỳ nhân” kiêm “đệ nhất chân nhân” trong tiểu thuyết Kim Dung. Ông cho rằng nhân vật này thể hiện “quốc dân tính” của người Trung Quốc, không khác gì AQ của Lỗ Tấn.
Có thể nói những nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung có sự tăng trưởng rõ ràng, chân thực và sinh động, không bị đóng vào khuôn khổ. Không chỉ nhân vật chính, những nhân vật phụ như Chu Chỉ Nhược, Quách Phù, Tạ Tốn, Nhậm Ngã Hành … đều được diễn đạt với những nét rực rỡ riêng, khó hoàn toàn có thể tìm thấy trong truyện của những tác giả võ hiệp khác.
Hư hư thực thực
Nhìn chung, rất nhiều tác giả võ hiệp Trung Quốc mắc phải căn bệnh khuôn sáo, sử dụng quanh đi quẩn lại vài mô típ quen thuộc. Đó là chuyện nhà tan người mất, tìm thầy học võ để báo thù rửa hận. Hoặc như mong muốn có được bí kíp võ thuật vô địch rồi lại đi phục cừu. Hay trong võ lâm Open thế lực tà ác, hiệp khách đứng lên trừ kẻ bạo tàn …
Đọc đi đọc lại những cuốn truyện như vậy không khỏi gây ngán ngẩm. Thậm chí một danh gia như Cổ Long cũng không tránh khỏi lối mòn. Các tác phẩm của ông thường ít có khoảng trống to lớn, hầu hết là vài nhân vật tương tác qua lại, rất mê hoặc nhưng không để lại ấn tượng mạnh. Những tác giả kém hơn thì còn tệ hơn nhiều.
Truyện Kim Dung không đi vào lối mòn đó, dù vẫn giữ nhiều yếu tố cổ điển của tiểu thuyết võ hiệp. Cái hay của ông là đúc câu chuyện truyền kỳ trong cái khung lịch sử, kết hợp khéo léo giữa hư và thực. Ví dụ như ở Thư kiếm ân cừu lục, Trần Gia Lạc và vua Càn Long là hai anh em có mối quan hệ phức tạp.
Xạ điêu anh hùng truyện (trong ảnh là bản phim truyền hình năm 2017) lấy bối cảnh nhà Tống suy vi, đế chế Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn trỗi dậy.
Xạ điêu tam bộ khúc lấy bối cảnh nhà Tống suy vi, đế quốc Mông Cổ bắt đầu trỗi dậy rồi diệt Tống, thống trị Trung Quốc. Trong câu chuyện của Quách Tĩnh, Dương Quá và Trương Vô Kỵ, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật lịch sử như Thành Cát Tư Hãn, Oa Khoát Đài, Hốt Tất Liệt, vua tôi nhà Tống, Chu Nguyên Chương (người sáng lập nhà Đại Minh)… Thậm chí Trường Xuân chân nhân Khưu Xử Cơ của Toàn Chân giáo cũng là nhân vật có thật.
Trong Lộc Đỉnh ký, bộ tiểu thuyết đỉnh cao của Kim Dung, hoàng đế Khang Hy của nhà Đại Thanh là nhân vật vô cùng quan trọng, được mô tả sinh động từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành. Thi Lang cũng là bậc đại quan nổi tiếng thời Khang Hy, Ngô Tam Quế là đại Hán gian, mỹ nhân “hồng nhan họa thủy” Trần Viên Viên cũng được nhắc đến.
Sự tích hợp giữa lịch sử dân tộc và truyền kỳ giúp tiểu thuyết Kim Dung có quy mô to lớn, sinh động và đa dạng và phong phú. Chúng phối hợp với câu truyện con người trở thành quốc tế ba chiều ( lịch sử dân tộc – truyền kỳ – nhân sinh ) vừa kỳ lạ, vừa chân thực. Đây là điểm đặc biệt quan trọng mà trong số hàng nghìn tác giả tiểu thuyết võ hiệp, chỉ Kim Dung có được.
Thành tựu vượt khỏi biên giới tiểu thuyết võ hiệp
Thực tế là tích hợp giữa lịch sử vẻ vang và truyền kỳ không phải là độc môn công phu của Kim Dung. Lương Vũ Sinh cũng làm được điều đó. Theo nhà nghiên cứu Trần Mặc, cái hay của Kim Dung là sự phối hợp khôn khéo giữa lịch sử dân tộc – truyền kỳ – nhân sinh. Nghĩa là chuyện giang hồ và toàn cảnh lịch sử vẻ vang chỉ là cái nền để ông kể câu truyện con người.
Ở Xạ điêu anh hùng truyện, trong xã hội đầy biến loạn, Quách Tĩnh từ một đứa trẻ thật thà, ngu ngơ dần trưởng thành, trở thành bậc đại hiệp cứu quốc. Trong Thần điêu hiệp lữ, giữa lúc đế chế Mông Cổ đe dọa Trung Quốc, các môn phái lo đối đầu với đại cao thủ Mông Cổ, Dương Quá mất mẹ, tình cờ nhận Âu Dương Phong làm cha nuôi, nếm đủ mọi cay đắng của cuộc đời.
Lộc đỉnh ký là câu chuyện đồ sộ về thời vua Khang Hy của nhà Đại Thanh. Khi đó, Khang Hy còn chưa trưởng thành, ngai vàng chưa vững, bên trong Ngao Bái lộng quyền, bên ngoài Ngô Tam Quế rắp tâm làm phản. Trong giang hồ, Thiên Địa hội của tổng đà chủ Trần Cận Nam quyết “phản Thanh Phục Minh”.
Giữa mớ hỗn độn đó, gã tiểu lưu manh Vi Tiểu Bảo vô tình rời Lệ Xuân viện ở Dương Châu, lưu lạc đến Bắc Kinh, bị đưa vào Tử Cấm Thành rồi làm quen với Khang Hy, thăng quan tiến chức, trở thành đại quan. Không chỉ vậy, hắn hai chân đung đưa trên hai con thuyền giang sơn và giang hồ, vừa là thân tín của Khang Hy, vừa là hương chủ Thiên Địa hội.
Các tác phẩm của Kim Dung đã vượt ra bên ngoài biên giới của tiểu thuyết võ hiệp.
Ở tiểu thuyết Kim Dung, con người là TT, không hề bị công thức hóa như trong truyện của những tác giả võ hiệp khác, do đó cung ứng đúng tiêu chuẩn “ văn học là nhân học ”. Nhờ đó, truyện Kim Dung thoát khỏi biên giới của tiểu thuyết võ hiệp, của ” tục văn học “, để trở thành văn học chân chính.
Nhưng theo nhà điều tra và nghiên cứu Trần Mặc, Kim Dung còn có một kỳ chiêu khác nữa, giúp ông chứng minh và khẳng định vị thế tông sư nghệ thuật và thẩm mỹ tiểu thuyết. Đó là chất ngụ ngôn trong mỗi tác phẩm.
Như Liên thành quyết phê phán dữ dội một xã hội nơi mà đại hiệp háo danh, tà đồ háo sắc, quan phủ và dân chúng điên cuồng vì đồng tiền, khiến những người trung hậu như Địch Vân trở nên không chốn nương thân. Tiếu ngạo giang hồ, như chính Kim Dung khẳng định, là ngụ ngôn về những cuộc tranh giành quyền lực chính trị tàn khốc trong lịch sử Trung Quốc.
Còn Lộc đỉnh ký với gã lưu manh Vi Tiểu Bảo là nhân vật chính được đánh giá là cuốn tiểu thuyết phản võ hiệp, phơi bày đặc tính của người Trung Quốc và những mặt trái của nền văn hóa nước này. Đó cũng là tác phẩm đỉnh cao của Kim Dung.
Ngoài ra, chất ngụ ngôn còn đến từ từng nhân vật, từng câu truyện nhỏ trong tiểu thuyết Kim Dung. Đằng sau cuộc sống bi thảm của Tạ Tốn, sự tàn độc của Công Tôn Chỉ, bước ngoặt từ chính thành tà của Hoa Thiết Cán, câu truyện áo hoa của Khang Mẫn … đều tiềm ẩn những ý niệm thâm thúy về con người, về đời sống.
Chắc chắn Kim Dung mãi mãi là đỉnh điểm của tiểu thuyết võ hiệp Trung Quốc. /
Tác gia võ hiệp huyền thoại Kim Dung qua đời ở tuổi 94
30/10/2018
Kim Dung, tiểu thuyết gia nổi tiếng với hàng loạt tác phẩm võ hiệp tầm cỡ như ” Anh Hùng Xạ Điêu “, ” Thần Điêu Đại Hiệp “, ” Ỷ Thiên Đồ Long “, … vừa qua đời ở tuổi 94.
Apple Daily News cho biết nhà văn Kim Dung, tên thật là Tra Lương Dung, qua đời tại bệnh viện Hong Kong sau thời gian dài chiến đấu với bệnh tật. Con rể của ông là Ng Wai Cheong xác nhận thông tin này với South China Morning Post vào tối cùng ngày.
Kim Dung sinh năm 1924 tại tỉnh Chiết Giang ( Trung Quốc ) trong một gia tộc khoa bảng với ông cố là nhà thơ nổi tiếng còn ông nội là tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô.
Nhà văn Kim Dung trong một buổi trao đổi với độc giả. Ảnh: Hong Kong Apple Daily.
“Võ lâm minh chủ” về kiếm hiệp
Ông là tác giả tiểu thuyết võ hiệp xuất sắc nhất thế kỷ 20, được mệnh danh là “Võ lâm minh chủ” về sách kiếm hiệp. Ông cũng là người sáng lập tờ Minh Báo nổi tiếng tại Hong Kong.
Các cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng nhất của ông có ” Anh Hùng Xạ Điêu “, ” Thần Điêu Đại Hiệp “, ” Ỷ Thiên Đồ Long Ký “, ” Lộc Đỉnh Ký “, ” Tiếu Ngạo Giang Hồ “, ” Thiên Long Bát Bộ ” …
Ông được coi là một trong những nhà báo, nhà văn và nhân vật mang tầm tác động ảnh hưởng xã hội lớn nhất tại Trung Quốc và hội đồng người nói tiếng Hoa nhiều thập niên qua. Ông cho ra đời tiểu thuyết võ hiệp tiên phong của mình, ” Thư Kiếm Ân Cừu Lục ” trên tờ New Evening Post vào năm 1955 với bút danh Kim Dung.
Tác phẩm lập tức gặt hái thành công xuất sắc vang dội. Ông liên tục cho sinh ra 14 bộ tiểu thuyết võ hiệp khác, với tác phẩm ở đầu cuối là ” Lộc Đỉnh Ký ” hoàn tất vào năm 1972.
Sau khi triển khai xong những tác phẩm của mình, Kim Dung có lần ngâm tên tựa đề 14 bộ thành hai câu thất ngôn nổi tiếng : ” Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc / Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên ” ( Dịch nghĩa : Tuyết bay đầy trời bắn ( nhìn ) hươu trắng / Truyện cười thần hiệp tựa uyên xanh ).
Lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình trong một lần gặp nhà văn Kim Dung. Ảnh: Hong Kong
Ảnh hưởng mạnh tới văn hóa châu Á
Các tiểu thuyết của ông được fan hâm mộ trên khắp quốc tế tiếp đón, là nguồn cảm hứng cho vô số tác phẩm điện ảnh, chương trình phát thanh cho đến game show điện tử, tạo ra làn sóng văn hóa truyền thống đặc trưng của Hong Kong trong nhiều thập niên.
Ông nằm trong số những nhà văn Trung Quốc có tác phẩm cháy khách nhất mọi thời đại. Sách của ông đã được in hơn 300 triệu bản.
Sau khi kết thúc những bộ truyện kiếm hiệp cuối cùng vào thập niên 1970, Kim Dung bắt tay chỉnh sửa lại nhiều tác phẩm trước đó của mình. Ông tiếp tục tung hoành trong làng văn chương võ hiệp Trung Quốc với hàng loạt tác phẩm tái bản từ năm 1999 cho đến khi thật sự gác bút vào năm 2006, theo Taiwan News.
Ngoài sự nghiệp văn học đồ sộ, ông còn nổi tiếng với vai trò người sáng lập ra tờ Minh Báo của Hong Kong vào năm 1959, giữ vị trí tổng biên tập cho đến khi về hưu vào năm 1989 khi đã quá nửa lục tuần.
Kim Dung có năm người trong dòng họ từng làm quan dưới những triều vua Thanh – Khang Hy và Ung Chính. Kim Dung là hậu duệ trực hệ của một trong số họ, thư pháp gia Tra Thăng, lớn lên trong một ngôi nhà có tấm hoành phi được đích thân vua Khang Hy ban tặng.
Ông nội của ông, Tra Văn Thanh, làm quan dưới thời vua Quang Tự. Cha ông, Tra Xu Khanh, được giáo dục trong thiên nhiên và môi trường phương Tây, còn mẹ ông là con một mái ấm gia đình kinh doanh.
Diễn viên Lưu Đức Hoa vai Dương Quá và Trần Ngọc Liên vai Tiểu Long Nữ trong bộ phim “Thần Điêu Đại Hiệp” năm 1983, tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết Kim Dung. Ảnh: TVB.
Xuất bản cuốn sách đầu năm 15 tuổi
Thuở nhỏ, Kim Dung, con thứ hai trong 7 anh chị em, là đứa trẻ mê đọc sách. Ông dành nhiều thời hạn nghiền ngẫm những cuốn tiểu thuyết của tác giả Ba Kim mà anh trai mang về từ Thượng Hải, cũng như như cuốn sách khác ông mượn từ đồng đội họ, chú bác.
Trong một tác phẩm có đặc thù tự truyện khan hiếm, Kim Dung viết về tuổi thơ giàu sang của ông, một sự trái ngược với những bất công trong xã hội Trung Quốc đương thời.
Năm 1939, Kim Dung xuất bản cuốn sách tiên phong khi 15 tuổi ; đó là sách hướng dẫn thi vào trường cấp ba ông tổng hợp cùng hai người bạn. Sách cháy khách, mang về đủ tiền cho cả ba theo học ĐH tại Trùng Khánh.
Năm 1941, Kim Dung bị đuổi học vì viết một bài báo tường với nội dung châm biếm, nhưng hiệu trưởng đã giúp ông chuyển sang một trường khác.
Dù từng muốn theo đuổi ngành xuất bản, Kim Dung kỳ vọng trở thành nhà ngoại giao và ghi danh vào Trường Quản lý Trung ương ở Trùng Khánh vào năm 1944. Tuy nhiên, ông bị buộc thôi học sau khi phàn nàn về hành vi của những sinh viên là thành viên của Quốc Dân Đảng. Năm 1948, ở đầu cuối ông tốt nghiệp cử nhân luật quốc tế tại Đại học Tô Châu ở Thượng Hải.
Tượng Kim Dung tại đảo Đào Hoa, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Trung Quốc. Ảnh: Wikimedia Commons.
Trong quá trình đi thực tập, ông lại bén duyên với báo chí, làm phóng viên cho Nhật báo Đông Nam tại Hàng Châu năm 1946, và chuyển sang tờ Đại Công Báo ở Thượng Hải làm biên dịch tin quốc tế năm 1947. Năm 1948, ông đã chuyển đến làm việc tại văn phòng Hong Kong của Đại Công Báo.
Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949, cha ông bị coi là cường hào địa chủ và bị xử tử. Nhận được tin cha mất, ông “ở Hong Kong khóc 3 ngày 3 đêm, và u buồn trong suốt nửa năm”, ông viết trong “Nguyệt Vân”.
Với suy nghĩ “kẻ yếu thế không nên bị áp bức”, ông bắt đầu viết tiểu thuyết võ hiệp. Trong các tác phẩm của mình, ông kết hợp yếu tố cá nhân và yếu tố chính trị, những câu chuyện tuổi thơ và những chủ đề lớn.
Ba lần kết hôn và những câu chuyện “chạm đến trái tim”
Ông kết hôn 3 lần. Người vợ đầu của ông là Đỗ Dã Phân, một phụ nữ khuê những. Họ làm đám cưới năm 1948 và bà chuyển đến Hong Kong cùng ông, theo Đại Công Báo. Họ ly hôn trong thập niên 1950.
Người vợ thứ hai là nhà báo Chu Mai, hai người có với nhau 2 con trai và 2 con gái. Cuộc hôn nhân gia đình của họ mở màn xấu đi khoảng chừng năm 1976, thời gian cậu con trai 19 tuổi của hai người tự tử khi đang theo học năm nhất ĐH ở Mỹ. ” Đời sống hôn nhân gia đình của tôi có lẽ rằng đã tác động ảnh hưởng đến nó, tôi đã khiến nó tuyệt vọng “, Kim Dung sau đó nói.
Các tác phẩm của Kim Dung có ảnh hưởng sâu sắc lên nền văn hóa Hoa ngữ đại chúng. Trong ảnh, diễn viên Trương Mạn Ngọc trong một bộ phim của đạo diễn Vương Gia Vệ phóng tác từ tác phẩm “Anh
Trong khoảng thời gian cuối cùng của cuộc hôn nhân thứ hai, Kim Dung làm bạn với một nữ bồi bàn tên Lâm Lạc Di, người nhỏ hơn ông đến 30 tuổi, làm việc cho một nhà hàng gần văn phòng Minh Báo. Họ kết hôn trong thập niên 1970.
Ông không viết thêm tác phẩm nào sau tác phẩm ” Lộc Đỉnh Ký ” vào năm 1972. Thay vào đó, ông hai lần xem xét lại hàng loạt số tiểu thuyết võ hiệp, dự án Bất Động Sản ở đầu cuối dẫn đến việc tái bản ” Lộc Đỉnh Ký ” vào năm 2006.
” Các tiểu thuyết của Kim Dung viết không hay “, ông viết trong ” Nguyệt Vân “, tác phẩm được xem là Kim Dung kể về bản thân mình.
Nhưng ” khi ông viết và sau đó đọc lại tác phẩm của chính mình, ông thường khóc vì sự xấu số của nhân vật. Khi ông viết rằng Dương Quá mòn mỏi chờ đón Tiểu Long Nữ cho đến khi mặt trời khuất bóng, ông khóc. Khi ông viết rằng Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn bị buộc phải chia tay nhau, ông khóc. Khi ông viết rằng Kiều Phong giết người yêu A Châu vì hiểu nhầm, ông khóc càng thảm hơn “.
Những câu truyện đều xuất phát từ trái tim của ông, và cũng chạm đến vô số trái tim khác.
“Kim Dung Quán”, nơi trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp Kim Dung ở Hong Kong. Ảnh: Apple Daily
Kim Dung mất đúng vào ngày mà hai năm trước, Hạ Mộng – người tình trong mộng của ông, tuyệt sắc giai nhân màn ảnh Hong Kong những năm 1950 – cũng tạ thế, theo Apple Daily. Sự trùng hợp này khiến không ít người hâm mộ buông lời cảm thán: “Tôi nghĩ kiếp sau, họ nhất định có thể hoàn thành duyên phận chưa trọn ở kiếp này”.
Trong suốt 30 năm, ông từng bước đưa Minh Báo trở thành tờ báo chính trị – kinh tế có ảnh hưởng nhất Hong Kong. Với tiếng nói tự do, ông từng bị người ta gửi bom thư đe dọa, được cảnh sát bảo vệ 24/24, cũng như phải sang Singapore ở ẩn suốt một tháng rưỡi. Ông cũng từng phải thay đổi biển số xe mỗi lần ra khỏi nhà để tránh bị theo dõi.
Khi Cách mạng Văn hóa nổ ra ở Trung Quốc, sách của ông bị cấm. Tình trạng ấy kéo dài đến năm 1981 khi lời đề nghị gặp Đặng Tiểu Bình của ông được đáp ứng.
Hóa ra, họ Đặng là “fan” của ông. Có giai thoại kể rằng nhà lãnh đạo từng yêu cầu mua cho ông một loạt sách truyện Kim Dung từ bên ngoài “bức màn tre”.
Khi gặp nhau tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình nói với Kim Dung : ” Chúng ta đã là bạn lâu rồi, tôi đã đọc những tiểu thuyết của anh “.
Năm 1984, lệnh cấm sách Kim Dung được gỡ bỏ, được cho phép hàng triệu người Trung Quốc đại lục tiếp cận với những tác phẩm của ông. Các đoạn trích từ những tiểu thuyết mê hoặc, vốn một thời bị xem là chẳng có gì đáng chú ý quan tâm, cũng được đưa vào sách giáo khoa ở Trung Quốc và Nước Singapore. /